

Lương Gia Hân
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1
Thể thơ của văn bản trên là thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2
Những hình ảnh thể hiện nếp sống hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả:
- “Một mai, một cuốc, một cần câu” → Gợi lên cuộc sống giản dị, hòa hợp với thiên nhiên.
- “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá” → Cuộc sống thanh bần nhưng an nhiên, tự tại.
- “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” → Lối sống đơn sơ, gần gũi với thiên nhiên, không cầu kỳ vật chất.
Câu 3 (0.75 điểm):
Hai câu thơ:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
=> Tác giả đã sử dụng phép liệt kê (“một mai, một cuốc, một cần câu”) để nhấn mạnh lối sống giản dị, tự do tự tại của mình. Đồng thời, cụm từ “thơ thẩn dầu ai vui thú nào” thể hiện tâm thế thảnh thơi, không màng đến danh lợi của người ẩn sĩ.
Câu 4
Hai câu thơ:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao”
=> Quan niệm đại – khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang màu sắc triết lý sâu sắc. Ở đây, “dại” không mang nghĩa tiêu cực mà thể hiện sự lựa chọn lánh xa chốn quan trường đầy thị phi, bon chen để tìm về cuộc sống thanh tịnh. Ngược lại, “khôn” mang ý mỉa mai, chỉ những người lao vào vòng danh lợi. Đây là một quan niệm sống mang đậm tư tưởng Nho – Lão, coi trọng sự an nhiên, thanh cao hơn là công danh, quyền thế.
Câu 5
Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một người có nhân cách cao đẹp. Ông chọn lối sống ẩn dật, xa rời danh lợi để giữ tâm hồn thanh thản. Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp của một bậc trí giả thấu hiểu lẽ đời, không màng vinh hoa phú quý, tìm niềm vui trong thiên nhiên và cuộc sống giản dị. Điều đó thể hiện sự thanh cao, trí tuệ và nhân cách lớn của ông.
Câu 1
Trong cuộc sống hiện đại, lối sống chủ động có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân. Chủ động không chỉ giúp ta kiểm soát cuộc sống mà còn tạo điều kiện để nắm bắt cơ hội và đạt được thành công. Một người chủ động luôn biết tự lập, không phụ thuộc vào hoàn cảnh hay người khác, từ đó rèn luyện bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm. Ngược lại, những ai sống thụ động, ỷ lại sẽ dễ bị cuốn theo dòng đời, mất phương hướng và khó phát triển bản thân. Chẳng hạn, trong học tập, nếu học sinh chủ động tìm tòi, nghiên cứu thì sẽ hiểu bài sâu hơn, còn nếu chỉ chờ giáo viên giảng dạy mà không tự nỗ lực thì kết quả sẽ không cao. Trong công việc, những người chủ động luôn có nhiều cơ hội thăng tiến hơn vì họ không ngại tìm kiếm giải pháp và sáng tạo. Để rèn luyện lối sống này, mỗi người cần tự giác học hỏi, dám nghĩ dám làm và không ngại thử thách. Như vậy, sống chủ động không chỉ giúp ta làm chủ bản thân mà còn là chìa khóa để mở ra cánh cửa thành công.
Câu 2
Bài làm:
Đoạn thơ trên trích từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, không chỉ khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện tấm lòng lo nghĩ cho dân, cho nước của ông. Qua từng câu chữ, ta thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên, một tấm lòng sâu nặng với dân tộc và một lý tưởng cao đẹp về cuộc sống thái bình, ấm no.
Bốn câu thơ đầu mở ra một bức tranh mùa hè tràn đầy sức sống với những hình ảnh thiên nhiên rực rỡ: “Rồi hồng mát thuở ngày trường. Hoè lục đùn đùn tán rợp trường. Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ, Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Màu sắc của thiên nhiên vô cùng sống động, tươi tắn: sắc đỏ của thạch lựu, sắc hồng của sen, sắc xanh mát của hoè lục. Các từ ngữ giàu sức gợi tả như “đùn đùn”, “phun thức đỏ”, “tiễn mùi hương” không chỉ làm cho bức tranh thêm sinh động mà còn thể hiện sự chuyển động mạnh mẽ, sức sống dồi dào của vạn vật. Đây không chỉ là cảnh đẹp đơn thuần mà còn là biểu tượng cho sự thịnh vượng của đất nước. Qua cách miêu tả thiên nhiên đầy tinh tế ấy, ta thấy được một tâm hồn yêu cái đẹp, gắn bó sâu sắc với thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, Nguyễn Trãi vẫn không quên nghĩ về cuộc sống của nhân dân. Hai câu thơ tiếp theo: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ, Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.” gợi lên hai bức tranh đối lập. Một bên là sự nhộn nhịp của những người dân lao động với cảnh họp chợ buôn bán đầy rộn ràng, phản ánh cuộc sống mưu sinh của tầng lớp bình dân. Một bên là âm thanh buồn bã của tiếng ve khi chiều tà, tạo nên sự đối lập về không khí. Âm thanh “lao xao” nơi chợ cá cho thấy sự tất bật của người dân, nhưng cũng phần nào gợi lên sự vất vả, lo toan mưu sinh. Trong khi đó, tiếng ve chiều muộn lại khơi gợi sự tĩnh lặng, cô đơn của một bậc trung thần khi chứng kiến cảnh đời. Qua hai câu thơ, ta thấy được tấm lòng của Nguyễn Trãi-một con người tuy yêu thiên nhiên nhưng tâm hồn luôn nặng lòng vì dân, vì nước.
Hai câu thơ cuối “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp đôi phương.” đã thể hiện rõ ràng lý tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi. Ông nhắc đến “Ngu cầm” -cây đàn thời vua Nghiêu, vua Thuấn, biểu tượng cho thời kỳ thái bình, đất nước hưng thịnh, nhân dân ấm no. Câu thơ thể hiện ước mơ, khát vọng của tác giả về một xã hội mà ở đó, nhân dân không còn chịu cảnh cơ cực, mà được sống trong cảnh giàu có, yên vui. Đây chính là tấm lòng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi luôn theo đuổi suốt cuộc đời mình.
Tóm lại, đoạn thơ không chỉ là bức tranh thiên nhiên đầy sức sống mà còn là bức tranh tâm hồn của Nguyễn Trãi-một con người yêu thiên nhiên, yêu nhân dân và luôn trăn trở về cuộc sống của dân tộc. Ông không chỉ là một thi nhân tài hoa mà còn là một nhà tư tưởng lớn, một bậc trung thần luôn lo nghĩ cho vận mệnh đất nước. Đọc thơ ông, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thấy được một trái tim đầy nhiệt huyết, một nhân cách cao cả đáng kính trọng.