

Hà Đăng Như Quỳnh
Giới thiệu về bản thân



































1. Thể thơ của văn bản trên là Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật
2. Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: một mai, một cuốc, một cần câu, nơi vắng vẻ, Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao, rượu đến cội cây sẽ uống, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
3. Biện phát tu từ của hai câu thơ sau được thể hiện qua: một mai, một cuốc, một cần câu. Tác dụng của biện pháp tu từ là nhấn mạnh sự nhàn rỗi, ung dung tự tại, sự thờ ơ của tác giả đối với thế giới đầy thú vui ngoài kia.
4. Phép đối giữa "nơi vắng vẻ" và "chốn lao xao" cho thấy sự đối lập giữa cuộc sống của tác giả và người khác, ông cho rằng nơi vắng vẻ, yên bình ấy mới là cuộc sống, tránh xa khỏi cuộc sông chốn quan trường, chốn đông đúc đầy nhơ bẩn.
Đại từ xưng hô "ta" "người" và phép đối "dại" và "khôn" cho ta thấy được sự mỉa mai của tác giả đối với người khác, đúng hơn là các quan lại, quan thần khi đến những chốn lao xao đông đúc đầy nhơ bẩn ấy. Khôn thì khôn đấy nhưng là khôn dại. Đồng thời tác giả nhấn mạnh lựa chọn sáng suốt của mình khi chọn nơi nắng vẻ, dù là dại nhưng mà là dại khôn.
Tóm lại chỉ hai câu thơ trên, tác giả đã châm biếm mỉa mai những kẻ "khôn " ấy và đồng thời tỏ rõ sự sáng suốt trong lựa chọn của mình về nơi vắng vẻ.
5. Từ bài thơ trên ta có thể nhận ấy vẻ đẹp thanh cao đầy khôn ngoan của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng với đó là sự mưu trí trong cách nói, cách mỉa mai đầy tao nhã ấy của ông. Ngoài ra bài thơ còn thể hiện được sự thích thú sự nhàn rỗi và ung dung tự tại của tác giả khi về nơi vắng vẻ không ai quan tấm, tránh được mọi sự thị phi, sự đấu tranh giữa các quan lại. Với hai câu thơ "Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao" thể hiện sự tận hưởng cuộc sống giản dị, yên bình của tác giả, không cao sang lông lẫy chỉ đơn điệu bình dân.
1. Thể thơ của văn bản trên là Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật
2. Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hằng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả là: một mai, một cuốc, một cần câu, nơi vắng vẻ, Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, tắm hồ sen, tắm ao, rượu đến cội cây sẽ uống, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
3. Biện phát tu từ của hai câu thơ sau được thể hiện qua: một mai, một cuốc, một cần câu. Tác dụng của biện pháp tu từ là nhấn mạnh sự nhàn rỗi, ung dung tự tại, sự thờ ơ của tác giả đối với thế giới đầy thú vui ngoài kia.
4. Phép đối giữa "nơi vắng vẻ" và "chốn lao xao" cho thấy sự đối lập giữa cuộc sống của tác giả và người khác, ông cho rằng nơi vắng vẻ, yên bình ấy mới là cuộc sống, tránh xa khỏi cuộc sông chốn quan trường, chốn đông đúc đầy nhơ bẩn.
Đại từ xưng hô "ta" "người" và phép đối "dại" và "khôn" cho ta thấy được sự mỉa mai của tác giả đối với người khác, đúng hơn là các quan lại, quan thần khi đến những chốn lao xao đông đúc đầy nhơ bẩn ấy. Khôn thì khôn đấy nhưng là khôn dại. Đồng thời tác giả nhấn mạnh lựa chọn sáng suốt của mình khi chọn nơi nắng vẻ, dù là dại nhưng mà là dại khôn.
Tóm lại chỉ hai câu thơ trên, tác giả đã châm biếm mỉa mai những kẻ "khôn " ấy và đồng thời tỏ rõ sự sáng suốt trong lựa chọn của mình về nơi vắng vẻ.
5. Từ bài thơ trên ta có thể nhận ấy vẻ đẹp thanh cao đầy khôn ngoan của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng với đó là sự mưu trí trong cách nói, cách mỉa mai đầy tao nhã ấy của ông. Ngoài ra bài thơ còn thể hiện được sự thích thú sự nhàn rỗi và ung dung tự tại của tác giả khi về nơi vắng vẻ không ai quan tấm, tránh được mọi sự thị phi, sự đấu tranh giữa các quan lại. Với hai câu thơ "Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá. Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao" thể hiện sự tận hưởng cuộc sống giản dị, yên bình của tác giả, không cao sang lông lẫy chỉ đơn điệu bình dân.