

Đặng An Vĩ
Giới thiệu về bản thân



































Từ 5 đến 6 dong: Từ thế kỉ thứ X – XVIII, các dân tộc vùng núi phía Bắc chủ yếu di chuyển theo cách đi bộ. Tuy nhiên, ở một số dân tộc đã xuất hiện các cách vận tải, di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người mông, Hà Nhì, Dao dùng sức ngựa. Khác với các dân tộc vùng núi phía Bắc, các dân tộc ở Tây nguyên lại chủ yếu dùng sức voi, ngựa để vận chuyển. Ở các buôn làng ven sông, suối thì lại sử dụng các thuyền độc mộc.
Văn bản đề cập đến sự đa dạng của các loại ghe xuồng ở Nam Bộ, tác gải chỉ ra các đặc điểm và tác dụng cụ thể của các loại ghe, xuồng Nam Bộ. Về xuồng, có các loại phổ biến như xuồng lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy… Về ghe, thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài. Ghe xuồng ở Nam Bộ là một loại phương tiện giao thông hữu hiệu, gắn bó mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo.
Khi thầy viết bảng bụi phấn rơi rơi
Có hạt bụi nào rơi trên bục, có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy”
Những ca từ ca ngợi tình cảm thiêng liêng của những người Thầy luôn là đề tài được các tác giả đưa vào thơ ca. Lời bài hát trên được trích từ bài hát “Bụi phấn” với nội dung thể hiện tình cảm của người học trò dành cho người Thầy của mình và đó cũng là những tâm tư em dành cho một người thầy giáo lớp 5 của em .
Tên đầy đủ của thầy là Nguyễn Xuân Tình, thầy là giáo viên dạy môn Toán năm nay tuy đã bước sang tuổi 50 nhưng phong thái của thầy còn rất nhanh nhẹn và chính xác đến từng con số. Bản chất môn Toán là môn số học rất cứng nhắc lại luôn đòi hỏi sự chính xác và mạch lạc thế nhưng qua cách dạy của thầy nó lại trở thành môn học em yêu thích nhất, thầy đưa những công thức cứng nhắc thành những bài vè để chúng em dễ dàng tiếp thu kiến thức hơn, sự tận tuỵ với nghề với cả lớp khiến cho không khí lớp học bớt căng thẳng đi rất nhiều, đôi khi thầy còn như người cha lo cho chúng em từ ly nước chúng em trong những ngày hè nóng bức. Để không phụ lòng của thầy bằng cách luôn cố gắng học tập chăm chỉ thì chúng em còn đặt cho thầy một cái tên gọi rất gần gũi thân thương là “ Cha Già”, bởi dĩ thầy với chúng em đã quá đỗi là một gia đình, hình ảnh mà người Cha Già ấy trên bục giảng hăng say đến quên những hạt bụi phấn bám cả lên áo thầy khiến thầy trông già đi như vẽ lên một bức mang giá trị tinh thần tuyệt vời. Dù biết rằng còn nhiều khó khăn phía trước hơn nữa nhưng những gì thầy mang lại là động lực tuyệt vời để chúng em vượt qua, chính nhờ thầy lái đò mà mọi khó khăn chúng em đều vượt qua tất cả để cập bến thành công, nhìn thầy nở nụ cười mỗi khi cả lớp hoàn thành suất sắc bài học, bài thi hay là cả những khi vài giọt mồ hôi lăn tăn trên trán là khi mà những người học trò như tụi em cảm thấy hạnh phúc và kính yêu thầy biết nhường nào.
Đó là thầy giáo em rất yêu quý thầm mong thầy luôn khỏe và một thời gian nữa khi quay lại trường em vẫn có thể thấy hình ảnh thầy đứng trên bục giảng cùng các em lớp dưới, giờ đây cứ mỗi lần đến dịp 20-11 cho dù thế nào em cũng không quên rằng đang có một người Cha Già luôn đón chào mình phía trước.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn hiện lên với một vẻ đẹp vĩ đại và thiêng liêng. Ngày 19 tháng 5 năm 1890, một người con của đất Việt, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, đã chào đời. Từ những năm tháng ấu thơ, Bác đã chứng kiến những đau thương, mất mát của dân tộc mình dưới ách đô hộ của thực dân. Chính những điều đó đã thôi thúc Bác ra đi tìm đường cứu nước, tìm lối thoát cho nhân dân khỏi cảnh lầm than.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là một con người đầy tình yêu thương với quê hương, đất nước. Khi rời xa quê hương, Bác đã để lại sau lưng không chỉ là những kỷ niệm ngọt ngào về tuổi thơ mà còn là nỗi đau của một người con luôn khao khát tự do cho tổ quốc. Sự ra đi của Bác không chỉ là một chuyến hành trình đơn thuần mà là một quyết định mang tính lịch sử, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và ý chí kiên cường.
Bác đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từ những con phố nhộn nhịp của Paris đến những bến cảng tấp nập của các nước châu Âu, để tìm hiểu, học hỏi những tư tưởng tiến bộ và những kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trên thế giới. Trong hành trình gian nan đó, Bác không chỉ mang theo trong mình ước mơ về một Việt Nam độc lập, tự do mà còn mang theo trái tim nồng nàn yêu nước, khao khát hòa bình cho nhân dân.
Những năm tháng sống xa quê hương, Bác đã không ngừng nghĩ về đồng bào, về đất nước. Mỗi khi nhớ về quê, tâm hồn Bác lại trào dâng những cảm xúc mạnh mẽ. Hình ảnh quê hương với cánh đồng xanh, dòng sông trong vắt, và những con người lam lũ luôn là động lực để Bác tiếp tục hành trình. Bác đã từng nói: “Tôi chỉ có một ước mơ duy nhất là làm sao cho dân tộc tôi được tự do, hạnh phúc”. Chính ước mơ ấy đã dẫn dắt Bác trở về, dẫn dắt Bác trở thành nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc.
Thật vậy, sự ra đi tìm đường cứu nước của Bác không chỉ là một bước ngoặt trong cuộc đời của Người mà còn là một mốc son trong lịch sử dân tộc. Từ đó, Bác đã trở thành biểu tượng của sự kiên cường, ý chí và tình yêu dành cho quê hương đất nước. Hành trình của Bác đã khơi dậy trong lòng mỗi người dân Việt Nam niềm tự hào, khát vọng về một tương lai tươi sáng, một đất nước độc lập, thống nhất và phát triển.
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một di sản quý giá, không chỉ là những bài học về lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết mà còn là tấm gương sáng về sự hy sinh vì lợi ích của nhân dân. Trong lòng mỗi người Việt Nam, Bác mãi là một hình mẫu lý tưởng, một người cha già kính yêu, người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bài học từ cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, thúc đẩy mỗi chúng ta nỗ lực phấn đấu vì một Việt Nam ngày càng phát triển, thịnh vượng, xứng đáng với những gì mà Bác đã cống hiến. Hình ảnh Bác Hồ với nụ cười hiền hậu, ánh mắt sáng ngời luôn sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, như một ngọn đuốc soi đường cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Trong bài văn tản "Người ngồi đợi trước hiên nhà" của tác giả Huỳnh Như Phương, dì Bảy được mô tả là một người phụ nữ đã trải qua nhiều khó khăn và hi sinh trong cuộc sống. Dì Bảy đã chờ đợi chồng trở về suốt hơn 20 năm, chịu đựng cảm xúc buồn bã, nỗi lo sợ và nhớ nhung. Mặc dù không được hạnh phúc trọn vẹn vì mất chồng, dì Bảy vẫn hi sinh tình yêu cá nhân để tỏ lòng trung thành với người chồng áo quốc. Sự kiên nhẫn, sự hy sinh của dì Bảy đã khiến tôi cảm thấy xúc động và ngưỡng mộ. Đó là bài học về tình yêu thương và lòng hi sinh không tiếc nuối. Dì Bảy đã cho tôi thấy rằng, trong cuộc sống, không chỉ có sự hi sinh của anh hùng trên chiến trường mà còn có sự hy sinh thầm lặng, cao cả của người phụ nữ như dì Bảy.
có 2 nguyên nhân:
- nguyên nhân chủ quan chủ quan:
+ Q thiếu kiến thức và nhận thức về tác hại của việc sử dụng chất cấm như cần sa
+ Tâm lý tò mò, muốn thử nghiệm cảm giác mới lạ
+ Thiếu bản lĩnh và kỹ năng từ chối khi bị bạn bè rủ rê
- nguyên nhân khách quan:
+ Ảnh hưởng từ môi trường xung quanh, sự rủ rê của bạn bè xấu
+ Thiếu sự quan tâm, giáo dục từ gia đình và nhà trường về tệ nạn xã hội
* hậu quả:
- Sức khỏe bị suy giảm nghiêm trọng, dáng vẻ trở nên hốc hác
- Lệ thuộc vào chất gây nghiện, mất kiểm soát bản thân
- Học lực giảm sút
- Bị pháp luật xử lý, mang tiếng xấu, làm mất uy tín cá nhân và gia đình
E thưa cô, nếu am hiểu nhau về mọi khía cạnh thì sẽ cs thể giúp đỡ nhau, cs thể đoàn kết để vượt qua mọi khó khăn, việc gì vào tay chưa thành công cô ạ!