

NGUYỄN MAI THẢO
Giới thiệu về bản thân



































Blended learning is a method that combines traditional classroom learning with online lessons. It offers many benefits for both students and teachers. The first benefit is flexibility. Students can learn at their own pace and review lessons online anytime, which helps them understand the material better. The second benefit is increased interaction. In blended learning, students can discuss with teachers and classmates both in class and through online platforms, which makes learning more interesting and active. The third benefit is better use of technology. Students become more familiar with using digital tools, which are very important for future jobs and daily life. In short, blended learning helps students learn more effectively, stay engaged, and be well-prepared for the modern world. It is a smart way to study in today’s technology-driven society.
Câu 1: Lối sống chủ động đóng vai trò quan trọng trong việc định hình thành công và hạnh phúc của mỗi người trong xã hội hiện đại. Cuộc sống ngày nay biến đổi không ngừng, nếu thụ động và trông chờ vào hoàn cảnh, con người dễ rơi vào trạng thái trì trệ, bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển bản thân. Ngược lại, người sống chủ động luôn biết đặt mục tiêu rõ ràng, tự giác hành động, sẵn sàng đón nhận thử thách và không ngừng học hỏi. Họ không chỉ làm chủ thời gian và công việc, mà còn làm chủ cảm xúc, tư duy và định hướng tương lai của chính mình. Sống chủ động còn giúp con người thích ứng tốt hơn trước những biến động của xã hội và giữ được tinh thần lạc quan, tích cực. Trong học tập, công việc hay các mối quan hệ, người có lối sống chủ động thường đạt được kết quả tốt hơn và dễ tạo dựng niềm tin nơi người khác. Vì vậy, rèn luyện cho mình lối sống chủ động chính là cách để mỗi người sống có trách nhiệm, bản lĩnh và từng bước chạm tới thành công trong cuộc sống.
Câu 1: Trong văn bản "Chiếu cầu hiền tài", Nguyễn Trãi đã vận dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, thuyết phục để thể hiện tư tưởng trọng dụng nhân tài của vua Lê Thái Tổ. Trước hết, ông sử dụng phép lập luận nhân quả: “Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử”, nhằm khẳng định vai trò then chốt của hiền tài đối với vận mệnh quốc gia. Từ lý lẽ ấy, tác giả mở rộng bằng cách nêu dẫn chứng từ lịch sử Trung Hoa như Tiêu Hà - Tào Tham, Địch Nhân Kiệt - Trương Cửu Linh... để chứng minh việc cất nhắc hiền tài từng là nguyên nhân đưa đến sự hưng thịnh của các triều đại lớn. Nguyễn Trãi cũng kết hợp giọng văn chân thành, khiêm tốn, thể hiện sự lo lắng của vua: “Sớm khuya lo sợ, như gần vực sâu”, khiến người đọc cảm nhận được tấm lòng thành thực cầu hiền. Ngoài ra, ông còn khéo léo khơi gợi lòng tự trọng và khát vọng cống hiến của kẻ sĩ, vừa khuyến khích tự tiến cử, vừa đảm bảo quyền lợi xứng đáng. Nhờ nghệ thuật lập luận linh hoạt, bài chiếu không chỉ là lời kêu gọi nhân tài, mà còn thể hiện khát vọng xây dựng quốc gia hưng thịnh và nhân nghĩa.
Câu 1: Truyện ngắn Con chim vàng của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm đầy ám ảnh về số phận của những đứa trẻ nghèo trong xã hội xưa. Nhân vật Bào – cậu bé mười hai tuổi đi ở đợ vì món nợ của mẹ – hiện lên với nỗi khổ cực, tủi nhục và bi kịch bị dồn ép đến tận cùng. Qua hình ảnh Bào liều mình trèo lên cây để bắt chim cho cậu chủ chỉ vì sợ đòn, sợ bị chửi, nhà văn đã tố cáo sự tàn nhẫn và vô cảm của tầng lớp bóc lột. Hình tượng “con chim vàng” là biểu tượng cho ước mơ tự do, hạnh phúc mà Bào không bao giờ với tới. Đáng đau xót hơn, khi Bào rơi từ trên cây xuống, máu đổ đầy mặt, thì mẹ con nhà chủ lại chỉ tiếc thương cho con chim chết. Chi tiết “tay Bào với tới... nhưng chẳng với được ai” cho thấy sự cô đơn, tuyệt vọng và phũ phàng đến nhẫn tâm của xã hội. Bằng giọng văn chân thực, xúc động, tác phẩm là lời lên án sâu sắc bất công xã hội, đồng thời thể hiện niềm cảm thông sâu sắc với những số phận nhỏ bé, khốn cùng.
Câu 2: Trong nhịp sống hiện đại, khi con người dường như ngày càng bị cuốn vào guồng quay của công việc, của những toan tính, thì tình yêu thương lại trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Tình yêu thương không chỉ là một tình cảm thiêng liêng mà còn là cội nguồn, là chất keo kết dính xã hội, giúp con người xích lại gần nhau hơn, sống có ý nghĩa và nhân văn hơn. Có thể nói, tình yêu thương chính là ánh sáng soi đường cho hành trình sống của mỗi chúng ta.
Tình yêu thương là sự quan tâm, chia sẻ và cảm thông giữa người với người. Đó có thể là tình cảm gia đình – nơi cha mẹ hết lòng vì con cái, con cái hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Đó cũng có thể là tình bạn chân thành, là sự giúp đỡ giữa những con người xa lạ gặp nhau trong cuộc sống. Khi con người sống với nhau bằng sự yêu thương, thế giới này sẽ trở nên ấm áp, thân thiện và đáng sống hơn. Bởi lẽ, tình yêu thương giúp ta vượt qua những khó khăn, bù đắp những thiếu thốn, chữa lành những tổn thương tinh thần mà không có thứ vật chất nào thay thế được.
Cuộc sống vốn dĩ không chỉ có niềm vui mà còn có biết bao đau khổ, thử thách. Trong những lúc ấy, một ánh mắt cảm thông, một cử chỉ giúp đỡ hay một lời động viên cũng đủ khiến ta có thêm niềm tin để tiếp tục bước đi. Nhiều mảnh đời bất hạnh, nhờ có sự yêu thương, che chở từ cộng đồng mà đã có thể vươn lên, thay đổi số phận. Tình yêu thương chính là sức mạnh diệu kỳ, có thể làm nên những điều tưởng chừng như không thể.
Bên cạnh đó, tình yêu thương còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Khi mỗi cá nhân biết sống vì người khác, biết sẻ chia, giúp đỡ, thì xã hội sẽ hạn chế được những hiện tượng tiêu cực như bạo lực, thờ ơ, vô cảm. Ngược lại, khi con người sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân, thì khoảng cách giữa người với người ngày càng xa, và xã hội sẽ trở nên lạnh lẽo, thiếu gắn kết.
Tuy nhiên, yêu thương không đồng nghĩa với nuông chiều hay thương hại. Yêu thương chân thành là khi ta biết cho đi đúng cách, đúng lúc và biết trân trọng giá trị của người khác. Tình yêu thương phải đi kèm với lý trí và trách nhiệm thì mới thực sự trở nên cao quý.
Tóm lại, tình yêu thương là một giá trị sống cốt lõi mà mỗi người cần nuôi dưỡng và lan tỏa. Sống yêu thương không chỉ giúp ta trở nên tốt đẹp hơn mà còn góp phần xây dựng một xã hội nhân văn và bền vững. Hãy để mỗi ngày trôi qua không chỉ là một ngày sống, mà còn là một ngày yêu thương và được yêu thương.
Câu 1: Thể thơ là: thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2: Những hình ảnh nói về sinh hoạt đạm bạc, thanh cao của tác giả là: “một mai, một cuốc, một cần câu”, “thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Câu 3: -Biện pháp tu từ liệt kê: “một mai, một cuốc, một cần câu”.
- Tác dụng:
+Làm gợi hình, gợi cảm; thêm sinh động, hấp dẫn. liên kết chặt chẽ cho sự diễn đạt.
+Nhấn mạnh cuộc sống giản dị, lao động tự lập, gần gũi với thiên nhiên của tác giả
+Qua đó, thể hiện tinh thần ung dung, tự tại của tác giả.
Câu 4: Quan niệm dại – khôn của tác giả có sự nghịch lý thú vị: "dại" là rút lui về sống an nhàn nơi vắng vẻ. Vì "khôn" là bon chen nơi danh lợi, ồn ào. Qua đó, tác giả đề cao lối sống ẩn dật, an nhiên, xem đó mới là sự lựa chọn khôn ngoan thực sự.
Câu 5: Qua bài thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là người có nhân cách cao đẹp, sống thanh đạm, giản dị, hòa mình với thiên nhiên. Ông không màng danh lợi, giữ vững lối sống thanh cao, an nhiên giữa cuộc đời đầy biến động. Nhân cách ấy thể hiện sự khôn ngoan, bản lĩnh và trí tuệ của một bậc hiền triết.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là: nghị luận.
Câu 2: Chủ thể bài viết là: vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi).
Câu 3: -Mục đích chính của văn bản là: kêu gọi và khuyến khích việc tiến cử, tìm kiếm người hiền tài để giúp vua xây dựng và trị nước.
-Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập:
+Các văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên phải tiến cử mỗi người một người hiền tài.
+Không phân biệt người đã ra làm quan hay còn ở ẩn nơi thôn dã, miễn có tài trị dân, coi quân đều được trọng dụng.
+Khuyến khích người tài tự mình tiến cử, không nên ngại ngùng hay tự ti về hoàn cảnh xuất thân.
+Người tiến cử đúng sẽ được thưởng; người được tiến cử nếu là hiền tài thật sự sẽ được trọng dụng tùy theo tài năng.
Câu 4: -Các dẫn chứng là: Các triều đại Hán, Đường có nhiều quan tiến cử hiền tài như Tiêu Hà tiến Tào Tham, Địch Nhân Kiệt tiến Trương Cửu Linh...
-Nhận xét: Dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu, giàu sức thuyết phục, cho thấy tầm quan trọng của việc dùng người hiền tài trong xây dựng đất nước.
Câu 5: Thông qua văn bản, thể hiện chủ thể bài viết là một người có tấm lòng yêu nước, luôn lo nghĩ cho dân cho nước, biết trọng dụng nhân tài. Vị vua này khiêm tốn, cầu thị, sẵn sàng tiếp nhận người hiền, bất kể xuất thân, thể hiện tinh thần đổi mới, công bằng và cầu tiến.
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính là: Tự sự
Câu 2: Tình huống truyện là: Bào- cậu bé ở đợ bị ép buộc bắt con chim vàng cho cậu chủ nhà là thằng Quyên. Trong nỗ lực làm vừa lòng chủ để tránh bị đánh đập, Bào trèo cây bắt chim và bị rơi xuống, bị thương nặng, còn con chim thì chết.
Câu 3: -Ngôi kể: Ngôi thứ 3
-Tác dụng: Giúp tác giả kể chuyện một cách linh hoạt, có thể tái hiện khách quan hành động, cảm xúc của nhiều nhân vật khác nhau. Đồng thời, ngôi kể này giúp người đọc cảm nhận rõ hơn nỗi đau khổ, sự bất công mà nhân vật Bào phải chịu đựng mà không bị chi phối bởi cái nhìn chủ quan.
Câu 4 : Chi tiết này mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Bào, trong lúc hấp hối, tưởng rằng có người cứu mình, chìa tay ra với hy vọng được giúp đỡ. Nhưng bàn tay mẹ thằng Quyên không phải để cứu Bào mà để nhặt xác con chim vàng – món đồ chơi quý báu của con trai bà. Điều đó cho thấy sự vô cảm, tàn nhẫn của người giàu, coi mạng sống người ở đợ còn không bằng một con chim. Đây là chi tiết tố cáo sâu sắc sự bất công và phản ánh số phận bi thảm của người nghèo trong xã hội cũ.
Câu 5 : Bào là một cậu bé ở đợ nghèo khổ, sống trong cảnh bị bóc lột, áp bức tàn nhẫn. Em là người chăm chỉ, chịu đựng, biết yêu thương và có lòng tự trọng, dù nhiều lần bị đánh đập nhưng vẫn cố gắng để làm vừa lòng cậu chủ nhỏ. Qua đó, Tác giả Nguyễn Quang Sáng bày tỏ lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận đau thương của những người nghèo khổ, đặc biệt là trẻ em trong xã hội xưa. Đồng thời, ông cũng lên án gay gắt sự bất công, tàn nhẫn của giai cấp thống trị, và phản ánh khát vọng được yêu thương, được đối xử công bằng của con người.