Cao Thị Ngà

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Cao Thị Ngà
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1. Theo bài viết, hiện tượng “tiếc thương sinh thái” là nỗi đau khổ của con người trước những mất mát về môi trường và sinh thái do biến đổi khí hậu gây ra, khiến tâm trí phản ứng giống như khi mất người thân.

Câu 2. Bài viết trình bày thông tin theo trình tự: nêu hiện tượng → định nghĩa và giải thích khái niệm → dẫn chứng cụ thể → mở rộng vấn đề → kết luận, cảnh báo.

Câu 3. Tác giả sử dụng các bằng chứng như: nghiên cứu của hai nhà khoa học Cunsolo và Ellis, chia sẻ từ người Inuit, trải nghiệm của các tộc người bản địa ở Amazon, và khảo sát của Caroline Hickman năm 2021 về trẻ em và thanh thiếu niên ở 10 quốc gia.

Câu 4. Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu dưới góc nhìn tâm lý – tinh thần, nhấn mạnh đến ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài của nó đến đời sống con người, đặc biệt là nỗi đau tinh thần chứ không chỉ là thiệt hại vật chất.

Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất: Biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề môi trường mà còn là khủng hoảng tâm lý toàn cầu, tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần, văn hóa và bản sắc của con người, cần được nhìn nhận và hành động khẩn cấp.


Câu 1

Môi trường là nền tảng thiết yếu cho sự sống của con người và mọi sinh vật trên Trái Đất. Việc bảo vệ môi trường ngày nay không chỉ còn là trách nhiệm của các tổ chức hay chính phủ, mà là mối quan tâm cấp bách của toàn nhân loại. Khi môi trường bị tàn phá – rừng bị chặt phá, không khí ô nhiễm, nguồn nước nhiễm độc – thì không chỉ hệ sinh thái bị đe dọa mà con người cũng phải đối mặt với hàng loạt hệ lụy như bệnh tật, thiên tai, và biến đổi khí hậu. Bài viết “Tiếc thương sinh thái” đã cho thấy môi trường không chỉ ảnh hưởng đến thể chất mà còn gây ra những tổn thương sâu sắc về mặt tinh thần. Vì vậy, mỗi cá nhân cần ý thức rõ vai trò của mình trong việc bảo vệ môi trường: từ những hành động nhỏ như tiết kiệm điện, không xả rác bừa bãi đến việc tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ thiên nhiên. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ sự sống, bảo vệ tương lai của chính chúng ta và các thế hệ sau.

Câu 2

Ẩn sĩ – những người chọn lối sống tách biệt khỏi cuộc đời bon chen, tìm về với thiên nhiên và sự thanh tĩnh – là hình tượng quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Qua hai bài thơ “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và “Thu điếu” (Nguyễn Khuyến), hình ảnh người ẩn sĩ được khắc họa với nhiều điểm tương đồng nhưng cũng mang những sắc thái riêng biệt, phản ánh tâm hồn và quan niệm sống của mỗi tác giả.

Trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện rõ quan điểm sống “an nhàn” với thiên nhiên, coi đó là lựa chọn đầy chủ động và có suy ngẫm. Ông “dại” để tìm về nơi “vắng vẻ”, đối lập với sự “khôn” của người đời – những kẻ chen chân nơi “chốn lao xao”. Người ẩn sĩ ở đây sống hòa hợp với thiên nhiên qua những sinh hoạt giản dị: ăn măng trúc, tắm hồ sen, uống rượu dưới bóng cây. Đó là một cuộc sống tự cung tự cấp, gần gũi với thiên nhiên, không vướng bụi trần, thể hiện triết lí sống thoát tục, ung dung, coi thường danh lợi – “phú quý tựa chiêm bao”.Trái lại, người ẩn sĩ trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến hiện lên với tâm thế tĩnh lặng, nhẹ nhàng và sâu lắng hơn. Không trực tiếp tuyên ngôn về sự “nhàn”, nhà thơ để người đọc cảm nhận được lối sống ấy qua khung cảnh mùa thu thanh vắng, bình yên. Cảnh vật như hòa vào tâm hồn thi nhân: trời thu xanh ngắt, gió nhẹ hiu hắt, trăng len vào cửa sổ. Ẩn sĩ trong thơ Nguyễn Khuyến sống hòa mình cùng thiên nhiên, có cảm hứng sáng tác nhưng rồi lại “thẹn với ông Đào” – thể hiện sự khiêm nhường, thanh cao và lòng tự vấn trước danh tiếng văn chương.Cả hai bài thơ đều xây dựng hình tượng ẩn sĩ sống nhàn tản, xa lánh danh lợi và tìm thấy sự an nhiên trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự dứt khoát, chủ động trong lối sống đạo lí thì Nguyễn Khuyến lại gửi gắm tâm hồn nhẹ nhàng, sâu lắng của một kẻ sĩ ẩn dật giữa thời thế rối ren. Dù sắc thái khác nhau, hai hình tượng đều cho thấy vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao, sống thuận theo lẽ trời, đề cao sự giản dị và bình yên nội tâm.

Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp văn chương mà còn thấy được bài học sống quý giá: trong một thế giới đầy biến động, biết sống chậm, sống đúng với bản thân, giữ gìn sự thanh thản trong tâm hồn là điều đáng quý.


Câu 1 : Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Biểu cảm.

Câu 2 :  Nhân vật “tôi” trong bài thơ đã trở thành sợi chỉ từ:  "Cái bông".

Câu 3 :

*Biện pháp tu từ có trong đoạn thơ là nhân hóa, sợi chỉ cũng có ý thức, có bạn bè:Nhờ tôi có nhiều đồng bang,

Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.

- Tác dụng: + Làm câu thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

+ Thể hiện rằng khi hợp lại, những sợi chỉ có thể có sức mạnh phi thường.=> Tình đoàn kết.Biện pháp tu từ có trong đoạn thơ là so sánh:

"Dệt nên tấm vải mỹ miều,

Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da".

- Tác dụng:

+ Làm câu thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

+ Nhấn mạnh vẻ đẹp và sự vững bền của tình đoàn kết.

Câu 4 :

- Đặc tính của sợi chỉ: Mỏng manh nhưng dẻo dai, có thể hợp lại với các sợi chỉ khác để tạo nên cái đẹp và sự bền vững. 

 Sức mạnh chủ yếu của sợi chỉ nằm ở việc có thể kết hợp với các sợi chỉ khác để tạo nên một mảnh vải đẹp, đó là sức mạnh của sự đoàn kết.

Câu 5 :

- Bài học: Sức mạnh của tình đoàn kết tạo ra những thắng lợi vẻ vang.

- Ý nghĩa: Phải biết yêu đồng bào, yêu dân tộc, biết nhường nhịn và cùng nỗ lực để đạt đến thành công.