Lý Bùi Thảo Hương

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lý Bùi Thảo Hương
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

câu2

Để xây dựng một xã hội như hiện tại, con người đã dành rất nhiều công sức và tri thức của mình để làm phong phú và phát triển nó. Tuy nhiên, một hiện tượng đáng tiếc hiện nay chính là tình trạng mất mát tri thức, hay còn gọi là "chảy máu chất xám." Khái niệm này ẩn dụ tình hình người tài và trí thức Việt Nam đang có xu hướng di cư và làm việc cho lợi ích của các quốc gia nước ngoài thay vì đóng góp cho đất nước của họ. Ngoài ra, chảy máu chất xám còn ám chỉ việc ý tưởng và sáng kiến của con người bị sao chép và lan truyền một cách rộng rãi trên thị trường mà không có sự kiểm soát về chất lượng.

Một hiện thực buồn nữa là nhiều người tài năng sau khi du học ở nước ngoài quyết định định cư tại đó và đóng góp cho đất nước của họ, trong khi đất nước Việt Nam đang cần "hít thở" những tài năng đó. Một ví dụ điển hình là chương trình Đường lên đỉnh Olympia, trong đó đa số các quán quân sau khi du học ở nước ngoài đều chọn ở lại đó và làm việc.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do ý thức cá nhân, mong muốn sống trong môi trường tốt hơn, tiện nghi hơn, và đôi khi quên đi nguồn gốc của họ. Nguyên nhân khách quan bao gồm cơ sở vật chất nước nhà chưa đủ để đáp ứng nhu cầu làm việc và nghiên cứu của con người, cũng như chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với công sức của họ.

Để khắc phục tình trạng này, mọi người cần nhận thức đúng đắn, sẵn sàng đóng góp cho đất nước, và hãy bỏ qua lợi ích cá nhân. Nhà nước cũng cần áp dụng các biện pháp đặc biệt để thu hút nhân tài về nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và trả công xứng đáng cho họ. Mỗi người có thể đóng góp bằng những hành động nhỏ, nhưng chúng ta cần thấu hiểu giá trị to lớn của việc sống và đóng góp cho một đất nước giàu đẹp và văn minh hơn.

câu1

Có ai trên đời này lại không muốn tự quyết định cuộc đời mình? Có ai muốn nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của người khác? Muốn thế chỉ có cách ta phải “sống ở thế chủ động”. Chủ động – có thể được hiểu là tự mình lập kế hoạch, thực hiện, và chịu trách nhiệm với mọi vấn đề trong cuộc sống mà không chịu sự chi phối bởi hoàn cảnh bên ngoài. Có thể ví cuộc sống mỗi chúng ta như một chặng đường, thì chủ động chính là chúng ta biết được hướng đi, tốc độ, điểm dừng, đích đến, chính vì thế mà người chủ động thường dễ thành công hơn. Chỉ có sống trong thế chủ động, Bác mới hướng mình sang phương Tây, để tìm hiểu cuộc sống nhân dân bên đó, để tìm ra con đường cứu nước cứu dân. Chỉ có sống và làm chủ bản thân, Bill Gates hay Mark mới bỏ ngang trường đại học danh giá nhất nước Mỹ để thực hiện ước mơ của mình. Và cũng chỉ có thế chủ động, bất cứ ai trong chúng ta mới có thể sẵn sàng đối diện với sóng gió. Người xưa đã từng than thở “gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”, thế hệ thanh niên của chúng ta ngày hôm nay không thể bị động như thế, không thể đóng vai “hành khách” trên chuyến xe mà người khác cầm lái. Có thể chúng ta chưa làm được điều gì to lớn, nhưng ít nhất sáng mai ăn gì, học như thế nào, thi trường gì, chúng ta hãy chủ động quyết định. Người chủ động phải là người luôn cầu tiến, ham học hỏi, rèn luyện và chuẩn bị hành trang cần thiết cho chuyến đi của mình. Làm gì có người leo núi nào lại không chuẩn bị thể lực, đồ dùng, làm gì có người giương buồm ra khơi nào mà không biết trước hướng đi. Điều đó có nghĩa, chủ động nhưng không liều lĩnh, chủ động cần tỉnh táo, tham khảo ý kiến mọi người, hạn chế mức thấp nhất sai lầm, thất bại, sẵn sàng đối diện với khó khăn.

 

Câu 1 thất ngôn bât cú đường luật

câu2 thu ăn măng trúc , đông ăn giá

 

 

 

câu1

Văn học có khả năng làm cho trái tim và tâm hồn con người trở nên đẹp hơn. Nó có thể đánh thức những cảm xúc tế nhị hoặc mãnh liệt trong mỗi người, giúp họ tiến tới tự do, dân chủ và thế giới của tình thương, hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. Những nhà văn thể hiện tất cả điều này thông qua các hình tượng và gợi ra những sự việc và hiện tượng đáng suy ngẫm về tính cách số phận và tình đời, tình người. Tác phẩm văn học có giá trị khi chứa đựng khoảng trống để khơi gợi sự tìm tòi và khám phá của người đọc. Chính hình tượng nghệ thuật là nơi ẩn chứa những khoảng trống này."Người trong bao" của nhà văn An-tôn Sê-khốp ra đời vào cuối thế kỷ XIX với hình tượng thầy giáo Bê-li-cốp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc không chỉ trong lòng độc giả nước Nga mà còn trên toàn thế giới. Hơn một thế kỷ trôi qua, tác phẩm vẫn đứng vững trong lòng người đọc. Tại Việt Nam, nó được chọn làm tài liệu dạy học trong chương trình Ngữ văn 11, chương trình nâng cao. Việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp đã khẳng định vị trí của "Người trong bao", vì những mạch ngầm văn bản cứ hiện dần trong lòng người đọc.

Trong tác phẩm "Người trong bao" của An-tôn Sê-khốp, hình tượng Bê-li-cốp được tái hiện thông qua hai lớp ngôi kể, đó là ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Ngôi kể thứ ba được sử dụng bởi tác giả để mô tả chuyện của thầy giáo Bu-rơ-kin về Bê-li-cốp, trong khi ngôi kể thứ nhất được sử dụng để tái hiện quan điểm và cảm xúc của nhân vật trong câu chuyện. Tuy nhiên, cách kể này lại được kết hợp một cách khéo léo giữa ngôi kể khách quan và ngôi kể chủ quan, khi tác giả không chỉ tường thuật lại câu chuyện một cách khách quan mà còn như là một nhân vật trong câu chuyện, nhìn nhận mọi khía cạnh, mọi vấn đề của câu chuyện. Kết hợp giữa hai lớp ngôi kể này giúp tác phẩm trở nên thuyết phục và sinh động hơn, đồng thời giúp người đọc có được cái nhìn tổng quát và sâu sắc hơn về hình tượng Bê-li-cốp.

Trong câu chuyện, nhà văn đã tập trung miêu tả những chi tiết tiêu biểu nhất của chân dung Bê-li-cốp. Ông ta là một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp cổ - một thứ tiếng rất ít người học. Hình ảnh của ông ta rất kì quặc, mọi thứ đều được đóng gói trong "bao" của ông ta. Ngay cả trong những ngày đẹp trời, ông ta vẫn mặc áo bành tô to cổ luôn dựng đứng đến lấp cả gương mặt, đi giày cao su, cầm ô và luôn đeo kính râm và nhét bông vào lỗ tai. Khi ở nhà, Bê-li-cốp luôn đóng cửa kín, áo khoác vẫn mặc, và giường ngủ của ông ta được miêu tả là chật và kín như cái hộp, nóng bức, ngột ngạt. Tất cả những chi tiết này đã tạo nên một hình ảnh chân dung quái gở, kì quặc của Bê-li-cốp và cho thấy ông ta luôn sống trong sự sợ hãi và phải phòng ngừa hết sức.

Nhà văn đã không chỉ miêu tả chân dung bên ngoài của Bê-li-cốp, mà còn khám phá sâu hơn vào thế giới bên trong của nhân vật. Bê-li-cốp là một người luôn mang trong mình khát vọng mãnh liệt, ẩn mình trong một "bao" để bảo vệ mình khỏi sự ảnh hưởng bên ngoài đáng sợ và ghê tởm của cuộc sống hiện tại. Hắn tôn thờ quá khứ và sợ hãi tương lai, và đối xử với thế giới bên ngoài với cảm giác lo lắng và hoang mang.  miêu tả của nhà văn đã đưa người đọc vào một thế giới đầy sự nặng nề và sợ hãi

Cách Bê-li-cốp anh ta tạo mối quan hệ với mọi người trong cộng đồng thật kì dị! Anh ta làm khiến người khác cảm thấy khó chịu và ghét bỏ. Anh ta có thói quen đi từ nhà này đến nhà khác và ngồi im một chỗ mà không nói gì, gây ra nỗi sợ hãi và căng thẳng cho những người xung quanh.Tác giả cũng phê phán cách sống của Bê-li-cốp và những người giống anh ta, đặc biệt là việc gây ra những nỗi sợ hãi và căng thẳng vô lý cho những người xung quanh, thương cách sống này không hợp lý và cần được thay đổi để tạo ra một bầu không khí trong lành và thoải mái hơn cho mọi người trong cộng đồng. một kẻ luôn di ứng và sợ cái mới, một kẻ đã chết nhưng không đau buồn, tiếc thương và đã chết trong chiếc bao của mình

Vớ nghệ thuận miêu tả khéo léo, nhà văn Sê khốp đã diễn tả lại một Bê - li cốp điển hình trong xã hội. Những chi tiết mô tả tâm lí bên trong của Bê-li-cốp thể hiện rõ hơn kiểu "người trong bao" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, khi những người dân phải tự bao bọc bản thân để tránh sự tiếp xúc với một thế giới bên ngoài tù túng và ngột ngạt. Bê-li-cốp là một sản phẩm của xã hội này.

câu2

Cuộc sống là một vòng tuần hoàn không ngừng thay đổi, và nếu chúng ta cứ mãi sống gò bó trong khuôn mẫu, trong chiếc vỏ bọc do chính mình tạo ra, ta sẽ không thể phát triển và tiến bộ hơn. Do đó, những người trẻ tuổi cần mạnh dạn "thoát ra khỏi vùng an toàn của mình". Vùng an toàn là giới hạn mà mỗi người tự đặt ra, nơi họ sống thoải mái, bình yên mà không có bất kỳ sự thay đổi hay đột phá nào. Đây là môi trường quen thuộc, không có những áp lực nặng nề hay mạo hiểm, nơi con người có thể kiểm soát mọi vấn đề xảy ra.

Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng phần lớn những người sống trong vùng an toàn của mình mà không dám thoát ra là thế hệ trẻ. Đây là một vấn đề rất đáng lo ngại. Tuổi trẻ là khoảng thời gian tươi đẹp nhất, chúng ta có năng lượng, có thời gian, và hơn hết chúng ta có thừa khả năng học hỏi những điều mới mẻ. Vậy tại sao lại chôn vùi khả năng đó trong chiếc vỏ bọc vô hình của bản thân?

Con đường đời của mỗi người chưa bao giờ là bằng phẳng, vì vậy chúng ta cần chấp nhận thực tế và mở rộng vùng an toàn của mình. Khi thoát ra khỏi vùng an toàn, chúng ta sẽ tích lũy được nguồn kiến thức phong phú, những bài học kinh nghiệm đầy giá trị làm nền tảng cho sự bứt phá trong những lĩnh vực mới, những hướng đi mới. Bước ra khỏi ranh giới của bản thân nghĩa là ta đã hoàn toàn sống độc lập, có khả năng xử lý và giải quyết những tình huống khó khăn, những sóng gió bất ngờ ập đến trên con đường đến đỉnh vinh quang.

Khi phá vỡ bức tường an toàn, chắc chắn sẽ có những lúc chúng ta cảm thấy yếu lòng, mệt mỏi hay choáng ngợp vì những thay đổi lớn, nhưng đó sẽ là cơ sở để chúng ta rèn luyện tính nhẫn nại, kiên trì bền bỉ, không vì chút khó khăn mà nản lòng hay từ bỏ giữa chừng.

Câu chuyện của nữ doanh nhân Hồ Ngọc Trâm là một minh chứng tiêu biểu. Chị đã dám từ bỏ vị trí quản lý nhân sự cấp cao của một công ty nước ngoài để bắt đầu công việc yêu thích của mình là xây dựng nông trại cung cấp nông sản sạch, một công việc hoàn toàn xa lạ với chuyên ngành của chị. Quá trình ấy không hề dễ dàng nhưng chị đã rất thành công, minh chứng cho việc dám thoát ra khỏi vùng an toàn và thực hiện những điều mới mẻ.

Trái với những tấm gương tiêu biểu ấy, ta vẫn thường bắt gặp nhiều thanh niên trẻ vì ngại bị từ chối mà không dám nộp hồ sơ vào các công ty lớn hay sống một cuộc sống lặp đi lặp lại theo quy củ, không có gì đột phá, không có gì thay đổi. Đó là những người suốt cuộc đời chỉ có thể dậm chân tại chỗ, chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt và thậm chí là không thể thành công.

Cuộc sống muôn hình vạn trạng, không ai biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Vì vậy, tuổi trẻ chúng ta hãy tập cho mình lối sống hòa nhập với những điều mới, hãy bước khỏi vùng an toàn của bản thân để trở thành những người bản lĩnh, kiên cường, tràn đầy kinh nghiệm và lòng nhiệt huyết. Chỉ khi dám đối mặt và vượt qua những thử thách, chúng ta mới có thể phát triển toàn diện và đạt được những thành công đáng kể trong cuộc sống

câu 1

Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam, mang dấu ấn phong cách riêng biệt; bởi những trang viết của ông thấm đẫm màu sắc và nhịp sống, dường như gói gọn cả “chất và người Nam Bộ” vào trong các tác phẩm của mình; chân chất, mộc mạc và giản dị vô cùng. Con chim vàng là truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Quang Sáng, được sáng tác năm 1956. Tác phẩm đã phản ánh chân thực nỗi bất hạnh của con người dưới thời Pháp thuộc ở Nam Bộ; qua đó thể hiện sự phê phán của tác giả với những kẻ thống trị; thể hiện nỗi đồng cảm, xót xa với những phận người nhỏ bé, nghèo khổ trong xã hội.

Truyện kể về nhân vật Bào – một cậu bé mười hai tuổi phải đi ở đợ gán nợ hai thúng thóc cho nhà hương quản trong làng. Con trai hương quản là thằng Quyên, chỉ kém Bào một tuổi nhưng được chiều chuộng vô lối, ích kỉ, nhõng nhẽo. Nó thấy con chim vàng đậu trên cây trứng cá nên thích mê mẩn đòi Bào bắt bằng được, không thiết gì các đồ chơi khác nữa. Bào phải lo làm việc cho nhà chủ, lại thêm gánh nặng bắt con chim vàng nên ghét con chim lắm. Hơn nữa, mẹ con Quyên lại đòi hỏi Bào bắt chim mà không được bắn bị thương, không được dùng bẫy cho khỏi tốn mồi, chỉ được chụp chim bằng tay không. Cực chẳng đã, Bào phải quấn lá để giấu mình, trèo lên cây chờ chim. Cuối cùng, Bào chụp được con chim vàng, nhưng bị ngã. Kết thúc truyện là cảnh con chim vàng đã chết và Bào thì thoi thóp trong vũng máu mà không hề được quan tâm hỏi han đến chút nào, vì mẹ con thằng Quyên còn đang mải xót xa cho con chim chết.

Tác phẩm đã cho ta thấy được bi kịch của những phận người nhỏ bé, nghèo khổ, bất hạnh; điều đó thể hiện rõ nét qua nhân vật Bào. Nó có hoàn cảnh bất hạnh: nhà nghèo, cha bệnh nên phải vay hai thúng thóc của nhà hương quản. Cha mất rồi, mẹ con Bào không trả được nợ nên Bào phải đi ở gán nợ. Một con người còn không đáng giá bằng hai thúng thóc, sự thực mới chua xót làm sao! Khi ở đợ cho nhà hương quản, Bào phải làm việc, phải đáp ứng mọi yêu cầu khắt khe, vô lí của chủ. Bào căm ghét con chim vàng, bởi vì “Bắt không được chim, không được ăn cơm”. Bào đã tìm đủ mọi cách để bắt con chim mà không thể đáp ứng được theo ý chủ. Nó tranh thủ khi đi chăn trâu để lặn ngụp dưới sông lấy đất sét nặn những con trâu đồ chơi, rồi “bưng chiếc nón lá rách đựng đầy đồ chơi” với các loại trâu để “hạ giọng năn nỉ” thằng Quyên chơi những đồ chơi đất nó đã dày công chuẩn bị, mong thằng con nhà chủ quên đi con chim vàng. Thế nhưng kết quả là thằng Quyên lăn đùng ra ăn vạ, giãy đành đạch, gào khóc gọi mẹ, và mẹ nó thì “đánh Bào té nhủi”. Nó mày mò làm ná thun để bắn con chim, thế nhưng chủ nó lại yêu cầu nó bắn thế nào cũng được, “miễn đừng chết, đừng què, đừng gãy cánh chim”; phải “bắn cho nó giật mình, chết giấc té xuống”. Một yêu cầu vô lí không tưởng, nhưng khi nó phản kháng, cãi chủ thì ngay lập tức bị đánh. Không được, nó tìm cách làm bẫy chim, xin chuối để làm mồi thì chủ nói “chuối tiền chuối bạc” không thể cho chim ăn được. Bị dồn đến bước đường cùng, Bào phải trèo lên cây để chụp con chim, dù biết đó là việc khó khăn và nguy hiểm đến nhường nào. Nhưng Bào đã không còn sự lựa chọn nào khác. Cuối cùng, Bào bị ngã từ trên cây xuống, nó “khuỵu xuống, đầu ngã xuống vũng máu”, đến tính mạng của mình cũng chẳng giữ được. Đáng buồn hơn, đến cả cái chết của Bào cũng không được quan tâm, vì mẹ con nhà chủ còn mải đi đau xót con chim chết, để “Tay Bào với tới, với mãi, với mãi nhưng cũng chẳng với được ai”. Nó bị dồn đến cái chết, chết trong tức tưởi và đau xót đến vậy. Một mạng người không quý bằng mạng của một con chim. Qua nhân vật Bào, tác giả đã phản ánh chân thực sự khổ sở, nhỏ bé, bất hạnh đến cùng cực của những người nông dân vùng Nam Bộ Việt Nam trong xã hội cũ. Họ là những người bị đàn áp, bị chèn ép đến đường cùng, thậm chí mất cả tính mạng nhưng cũng vẫn chỉ bị coi thường đến rẻ mạt, phận người không đáng giá bằng hai thúng thóc, không đáng giá bằng một con chim. Từ đó, tác giả đã thể hiện sự đồng cảm, thương xót với những kiếp người nhỏ bé bất hạnh như Bào, đồng thời lên tiếng tố cáo hiện thực xã hội một cách chân thực nhất.

Bên cạnh đó, ta cũng thấy được sự độc ác, tham lam, ích kỉ của những kẻ “làm chủ” trong xã hội. Qua nhân vật Quyên và người mẹ, tác giả đã khắc họa sự độc ác, tham lam, ích kỉ của những kẻ được coi là “tầng lớp trên” của xã hội, những kẻ làm chủ nhưng không có một chút coi trọng nào với những con người làm thuê cho mình. Quyên là thằng bé sung sướng từ nhỏ, ích kỉ, được chiều chuộng, nhõng nhẽo. Chỉ qua một số chi tiết như việc Quyên đòi phải có được con chim bằng được vì “không vừa ý cái gì là nó giãy nảy lên” hay hành động “Nó đưa chân đạp nhẹp mấy con trâu đất, khóc ré lên” kiểu ăn vạ là thấy được sự vô lí, trẻ con của nhân vật này. Một thằng bé mười một tuổi mà “nhào lăn ra thềm, đập chân đành đạch, gào lên” không khác gì một đứa bé mấy tuổi chưa có nhận thức. Quyên bắt mọi người phải chiều theo sở thích của mình, không cần quan tâm đến điều gì khác. Khi Bào trèo lên cây, còn đòi phải “trèo ra nhánh” để bắt được con chim, không biết đến sự nguy hiểm của việc Bào đang làm. Nếu như Quyên hống hách nhưng còn có chút trẻ con, thì nhân vật mẹ Quyên tuy xuất hiện không nhiều nhưng rất ấn tượng với người đọc bởi được tác giả khắc họa bằng các chi tiết đắt giá, thể hiện rõ sự độc ác, bất công, đòi hỏi vô lí với người làm. Bà ta đòi Bào phải bắt chim cho con chơi, nhưng khi muốn bắn con chim thì“muốn bắn mấy cái thì bắn, miễn đừng chết, đừng què, đừng gãy cánh chim của con tao thì thôi” rồi đòi hỏi vô lí khó có thể thực hiện được“bắn cho nó giật mình, chết giấc té xuống”. Khi thấy thằng Bào muốn bẫy chim thì không muốn tốn “chuối vàng chuối tiền” để cho chim ăn, muốn bắt được chim mà không tốn bất cứ cái gì của mình. Bà ta tham lam và ngu dốt, vô lí đến mức đòi kẻ ở phải chụp tay không để bắt con chim cho con chơi. Không những thế, bà ta còn độc ác, sẵn sàng chửi mắng người ở vì bất cứ lí do gì, bắt nhịn cơm hoặc đánh thằng nhỏ một cách độc ác. Bà ta còn nhẫn tâm, khi thằng Bào bị ngã từ trên cây xuống thì không hỏi han được một câu, chỉ chăm chăm thương xót con chim chết mà bỏ quên một mạng người. Qua nhân vật Quyên và mẹ Quyên, ta thấy được bộ mặt của một tầng lớp trong xã hội Nam Bộ xưa thời Pháp thuộc. Hai nhân vật là người nhà của hương quản - một chức tước nhỏ ở làng, nhưng đã hống hách, ích kỉ, bóc lột, coi thường người khác như vậy thì thử hỏi những kẻ ở tầng lớp cao hơn còn đến thế nào? Tác giả đã phê phán, lên án sự độc ác của những kẻ này khi mà chúng không coi con người bằng nổi một hai thúng thóc, hay bằng mạng của một con chim. Quá đau xót cho hiện thực xã hội ấy!

Không chỉ hấp dẫn người đọc bởi thông điệp giàu ý nghĩa, truyện ngắn còn thu hút người đọc bởi những nét đặc sắc về mặt nghệ thuật. Tác giả đã lựa chọn và sử dụng ngôi kể hợp lí, sử dụng ngôi kể thứ ba – ngôi kể biết tuốt, như một người ngoài cuộc để nhìn nhận mọi sự việc xảy ra trong câu chuyện: hoàn cảnh khổ sở của Bào khi phải đi ở đợ, bị mẹ con thằng Quyên đòi hỏi những yêu cầu vô lí, hành hạ về cả thân thể và tâm lí. Người kể chứng kiến tất cả những khổ sở của Bào, sự vô lí và nhõng nhẽo ương ngạnh của Quyên, sự độc ác kệch cỡm của mẹ Quyên… từ đó có cái nhìn toàn diện để kể lại cho người đọc. Ngôi kể thứ ba mang tính khách quan, khiến người đọc có thể chứng kiến câu chuyện và đưa ra cách phán đoán của riêng mình, không bị ảnh hưởng bởi phán đoán hay nhận xét của người khác. Từ đó, người đọc sẽ thấy mình có được sự đánh giá toàn diện hơn vì đã hiểu thấu đáo được câu chuyện.

Nguyễn Quang Sáng còn rất tài tình khi xây dựng nhân vật, ông tập trung vào giới thiệu hoàn cảnh, khắc họa tính cách qua việc chọn lựa các chi tiết tiêu biểu. Nhân vật Bào là đại diện cho những con người nghèo khổ bất hạnh: phải đi ở đợ gán nợ hai thúng thóc, tìm đủ mọi cách để bắt con chim trước đòi hỏi vô lí của chủ. Mười hai tuổi nhưng thằng bé đã khổ sở, phải làm đủ chuyện cho nhà chủ. Bị đánh đập tàn nhẫn tóe máu, cuối cùng mất mạng do bắt một con chim mà còn không được quan tâm… Khi miêu tả Quyên, ta thấy được sự trẻ con, hống hách, ích kỉ, được chiều chuộng của thằng bé qua chi tiết khóc gọi mẹ và lăn đùng ra ăn vạ; hay sự độc ác, vô lí của mẹ Quyên khi bắt Bào phải bắt sống chim mà không được bắn, không được làm mồi… Mỗi nhân vật được khắc họa, hiện lên với tính cách và hoàn cảnh riêng biệt, bộc lộ dụng ý nghệ thuật của tác giả.

Bên cạnh đó, ta còn thấy được tài năng của tác giả khi vận dụng những nét đặc sắc nghệ thuật khác. Đó là giọng kể dân dã, bình dị như người dân quê kể lại câu chuyện thường ngày khiến người đọc dễ tiếp cận câu chuyện hơn. Đó là ngôn ngữ mang đậm phong cách người dân Nam Bộ, giản dị đời thường. Tác giả còn sử dụng kết cấu đối lập, thể hiện trong sự trái ngược giữa hai nhân vật Bào và Quyên từ hoàn cảnh, tính cách, số phận… khiến nội dung chủ đề của câu chuyện được nổi bật hơn, thu hút người đọc.

Con chim vàng là một truyện ngắn hay, mang đậm phong cách Nguyễn Quang Sáng. Với những nét đặc sắc về nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật, lựa chọn ngôi kể… tác giả đã làm nổi bật hiện thực khổ sở của những người dân dưới thời phong kiến, khi mà số phận con người quá nhỏ bé, rẻ mạt, không được coi trọng. Tác phẩm đã gửi gắm đến người đọc thông điệp về sự yêu thương, không phân biệt giai cấp, quý trọng con người; khẳng định vị thế của Nguyễn Quang Sáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

câu 2

Với câu hỏi, điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống, có lẽ mỗi người sẽ có một câu trả lời khác nhau cho riêng mình. Là không khí? Thức ăn? Nước uống? Tất cả chúng đều đúng cả, chúng đều rất cần thiết cho sự sống con người. Nhưng nếu thiếu những thứ trên, con người ta chỉ chết đi về mặt sinh học. Còn nếu cuộc sống thiếu đi lòng yêu thương, khi ấy con người ta mới thực sự chết. Chết đi về cả thể xác lẫn tinh thần.

Lòng yêu thương là một trong những phẩm chất cao đẹp của con người, là sự đồng cảm, chia sẻ, gắn bó, thấu hiểu… giữa người với người. Yêu thương con người là phong cách sống đẹp, là nhân cách làm người, là cuộc cách mạng tinh thần, là đời sống thật và đẹp nhất của con người.

Trong cuộc sống của chúng ta, lòng yêu thương có một ý nghĩa vô cũng quan trọng. Nó làm cho mối quan hệ giữa người với người trở nên tốt đẹp hơn. Lòng yêu thương giúp con người ta cảm thấy hạnh phúc, đem lại sự hòa bình, bình yên tuyệt diệu cho mỗi cá nhân chúng ta. Nó giúp người đang yêu đời càng thêm hạnh phúc, giúp người đang khổ đau vơi đi nỗi muộn phiền, buồn khổ. Lòng yêu thương con người khiến cho ngày bão giông, u ám nhất cũng trở nên tươi sáng và những khó khăn nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng hơn. Vì thế, ta có thể hiểu rằng lòng yêu thương chính là một liều thuốc tinh thần vô giá đối với con người. Lòng yêu thương con người là một trong những tố chất làm nên ý nghĩa cuộc sống của mỗi chúng ta.

Lòng yêu thương con người có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi, ngay cả trong những biểu hiện nhỏ nhất của đời sống. Đó là tình mẹ thương con, tình cha cao cả, tình yêu thương với bạn bè, thầy cô, hàng xóm, láng giềng,…và với cả những người xa lạ đối với ta. Đó là sự chia sẻ vật chất khi khó khăn, hoạn nạn; là sự cảm thông, thấu hiểu, động viên, khích lệ với những con người đau khổ. Lòng yêu thương không phân biệt màu da, ngôn ngữ, khoảng cách giàu nghèo sẽ tạo điều kiện làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn.

Trong xã hội ngày nay, lòng yêu thương con người vẫn luôn hiện hữu và được thể hiện trong những hành động khác nhau. Một người qua đường thấy người ăn mày, ngừng lại, hỏi han, an ủi, giúp đỡ. Mỗi mùa hè đến, những sinh viên với màu áo xanh tình nguyện lại lặn lội, không quản ngại khó khăn đến các vùng núi xa xôi để giúp đỡ bà con dân tộc thiểu số. Những hoạt động vì tình thương luôn nhận được nhiều sự đồng tình và ủng hộ như Chương trình vì người nghèo, Ngôi nhà mơ ước, Lục lạc vàng… Lòng yêu thương là một chất xúc tác, một nguồn động lực giúp cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp và đáng sống hơn.

Nếu không tồn tại lòng yêu thương, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên khô cằn và tăm tối biết nhường nào. Tuy nhiên, nếu lòng yêu thương mà không được đặt đúng lúc đúng chỗ sẽ không thể tạo ta hạnh phúc cho con người. Một người mẹ thì lúc nào cũng yêu thương con nhưng tình yêu thương đó bị lầm tưởng thành sự cưng chiều, bênh vực quá mức bất chấp phải trái thì sớm muộn đứa con ấy sẽ trở nên hư hỏng. Bên cạnh đó, trong cuộc sống, đôi khi ta vẫn thường bắt gặp những con người thờ ơ, thậm chí chế giễu lên nỗi đau của người khác. Lối sống ích kỉ ấy là một hiện tượng cần lên án, vì nó đi ngược lại với truyền thống trọng tình, quý nghĩa của cha ông ta. Ngày nay, sống trong xã hội văn minh hơn, thì tình thương càng phải được đề cao hơn.

Vậy nên chúng ta đừng ngại ngần khi trao cho nhau tình yêu, lòng yêu thương giữ người với người. Lòng yêu thương khi được trao đi không chỉ là món quà bạn dành tặng cho người khác mà còn là một điều tốt đẹp bạn làm cho chính mình. Hãy biết sống sẻ chia, cảm thông, thấu hiểu và hướng về cộng đồng, để hoàn thiện nhân cách mình và trở thành những công dân có ích.

câu 1

Hình tượng đất nước được thể hiện một cách sâu sắc và đầy ý nghĩa. Đất nước không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là sự kết tinh của những yếu tố cụ thể và gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Đất nước trong bài thơ không chỉ là nơi sinh sống, mà là nơi khắc ghi những kỷ niệm, những dấu ấn của mỗi con người. Nó là nơi lưu giữ tình yêu, sự gắn bó và những giá trị tinh thần của từng thế hệ. Hình tượng đất nước trong đoạn trích cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa hiện tại và quá khứ, cho thấy đất nước không phải chỉ là một khối đất đai mà là một thực thể sống động, đầy sức mạnh và sức lan tỏa. Đất nước là sự tiếp nối của lịch sử, là nơi con người cùng nhau xây dựng lên và bảo vệ nó.

câu 2

 

 

câu 1 thể thơ tự do dấu hiệu câu dài ngắn khác nhau

câu 5

Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam vẫn luôn có truyền thống yêu nước nồng nàn, sâu sắc. Điều đó thể hiện ở trong quá khứ, nhân dân ta vẫn luôn chung sức chung lòng đánh bại kẻ thù xâm lược. Lòng yêu nước cần được thế hệ trẻ ngày nay gìn giữ và phát huy. Chúng ta cần ghi nhớ lịch sử hào hùng của dân tộc, để biết ơn thế hệ đi trước đã ngã xuống bảo vệ nền độc lập của tổ quốc. Mỗi người cần ý thức được trách nhiệm học tập, rèn luyện để đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Mỗi bạn trẻ có thể trở thanh một đại sứ để quảng bá hình ảnh đất nước đến bạn bè quốc tế, góp phần mở rộng quan hệ ngoại giao và phát triển kinh tế. Hơn cả, tinh thần yêu nước phải được thể hiện ở việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bạn trẻ có lối sống lệch lạc: quên đi nguồn cội, chạy theo văn hóa nước ngoài, đề cao vật chất… Điều đó thật đáng lên án và tránh xa. Lòng yêu nước của thế hệ trẻ ngày nay cần được giữ gìn và phát huy

câu4

 

vị ngọt trong câu thơ cuối của đoạn trích là vị của  khổ đau và vui sướng 

vị ngọt đó đc có từ tháng tám

 

 

 

câu 2

Mỗi người đều có kí ức tuổi thơ, dù đó là những kí ức đẹp hay không đẹp. Những kí ức đó sẽ để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của mỗi người. Kí ức tuổi thơ là những trải nghiệm trong thời gian tuổi thơ, khi mà ta còn đi học, được ôm ấp bởi tình yêu thương của bố mẹ. Trong cuộc sống bận rộn này, con người luôn nhớ đến những kí ức tươi đẹp của thời thơ ấu. Thời gian mà ta không cần phải suy nghĩ về tiền bạc, luôn tươi cười trong sự ngây thơ. Thời gian mà ta chơi các trò chơi đơn giản như bắt dê, chơi ô an quan và đạp xe trên phố. Những ngày học mà ta vẫn cứ mè nheo suốt ngày, nhưng bố mẹ lại vẫn yêu thương thật nồng nàn. Khi nhìn lại, ta thấy hối tiếc và tiếc nuối. Đó chính là lý do tại sao Lynk Lee đã viết bài hát "Cho tôi xin một vé về tuổi thơ". Đây cũng chính là điều mà mọi người, những người trưởng thành, những người bận rộn với công việc và cuộc sống gia đình mong muốn

 

câu1

Khi mới gặp hét to thể hiện sự kiên cường và trách nhiệm anh luôn nghĩ đến sự an toàn của gia đình mình còn Ăng-đrô -mác lại thể hiện sợ hãi và lo lắng cho Héc-to cô rất yêu thương và muốn anh ở bên. Khi chia tay sự đau xót và cảm xúc dâng trào he to vẫn thể hiện sự quyết tâm khi Ăng-đrô-mác cảm thấy bất lực. Điều này cho thấy Héc to là người dũng cảm, còn Ăng-đrô-mác là người nhạy cảm và yêu thương. Cả hai đều mang trong mình phẩm chất đáng quý .

Khi mới gặp hét to thể hiện sự kiên cường và trách nhiệm anh luôn nghĩ đến sự an toàn của gia đình mình còn Ăng-đrô -mác lại thể hiện sợ hãi và lo lắng cho Héc-to cô rất yêu thương và muốn anh ở bên. Khi chia tay sự đau xót và cảm xúc dâng trào he to vẫn thể hiện sự quyết tâm khi Ăng-đrô-mác cảm thấy bất lực. Điều này cho thấy Héc to là người dũng cảm, còn Ăng-đrô-mác là người nhạy cảm và yêu thương. Cả hai đều mang trong mình phẩm chất đáng quý .