NGUYỄN THẾ NGUYÊN

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của NGUYỄN THẾ NGUYÊN
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Dưới đây là phần trả lời cho PHẦN VIẾT (6,0 điểm): --- Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) Đoạn thơ trích từ bài “Trăng hè” của Đoàn Văn Cừ đã vẽ nên một bức tranh quê bình dị, yên bình và đậm chất thơ, thể hiện vẻ đẹp trầm lặng của cuộc sống thôn quê Việt Nam. Âm thanh “kẽo kẹt” của tiếng võng đưa, hình ảnh con chó ngủ lơ mơ ở đầu thềm, bóng cây bên hàng dậu và không gian “lặng tờ” đều gợi cảm giác yên ả, thanh bình. Đó là một miền quê không ồn ào, náo nhiệt mà chan chứa sự gắn bó, thân thương. Những con người trong tranh – ông lão nằm chơi giữa sân, thằng bé đứng ngắm bóng con mèo – đều đang sống trọn vẹn trong khoảnh khắc thư thái của một đêm hè trăng sáng. Cảnh vật và con người hòa quyện, tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và đời sống. Qua đó, đoạn thơ không chỉ thể hiện tình yêu sâu sắc của tác giả với quê hương, mà còn làm lay động lòng người bởi vẻ đẹp tĩnh tại, bình dị và đầy chất thơ của làng quê Việt Nam xưa. --- Câu 2 (4,0 điểm): Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) Tuổi trẻ là khoảng thời gian tươi đẹp nhất của đời người – là mùa xuân của cuộc sống, là giai đoạn sung sức nhất để khám phá bản thân và tạo dựng tương lai. Trong hành trình ấy, sự nỗ lực hết mình chính là chìa khóa quan trọng nhất để mỗi người trẻ hiện thực hóa ước mơ, vượt qua thử thách và khẳng định giá trị cá nhân. Nỗ lực hết mình không đơn thuần là làm việc chăm chỉ, mà còn là sự kiên trì, dám vượt qua khó khăn, thất bại để tiến tới mục tiêu cuối cùng. Trong thời đại hiện nay, tuổi trẻ đứng trước nhiều cơ hội rộng mở nhưng cũng không ít thử thách khốc liệt: cạnh tranh trong học tập, việc làm, áp lực thành công từ xã hội… Những ai biết kiên trì nỗ lực, dù xuất phát điểm khiêm tốn, vẫn có thể vươn tới đỉnh cao. Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh: nhiều người trẻ thành công không phải vì họ tài giỏi hơn người khác, mà vì họ nỗ lực nhiều hơn, bền bỉ hơn. Tuy nhiên, hiện nay không ít bạn trẻ rơi vào trạng thái chán nản, buông xuôi khi đối mặt với thất bại đầu tiên. Có người bị cám dỗ bởi cuộc sống hưởng thụ, ngại khó, ngại khổ, đánh mất đi tinh thần phấn đấu. Cũng có những bạn để mặc số phận, không tin vào chính mình. Những điều ấy thật đáng tiếc, bởi nếu tuổi trẻ không biết nỗ lực thì sẽ sớm đánh mất những cơ hội quý giá nhất cuộc đời. Sự nỗ lực hết mình không chỉ giúp bản thân trưởng thành, mà còn góp phần xây dựng xã hội phát triển. Tuổi trẻ nỗ lực hôm nay sẽ là những người làm chủ đất nước ngày mai. Từ việc học tập nghiêm túc, rèn luyện thể chất, làm việc với đam mê cho đến việc dấn thân vì cộng đồng – tất cả đều là biểu hiện của một tuổi trẻ sống có trách nhiệm và khát vọng. Đó cũng là cách để chúng ta biết yêu thương chính mình, làm rạng danh gia đình, quê hương và Tổ quốc. Vì thế, mỗi người trẻ cần nuôi dưỡng trong mình tinh thần không ngừng phấn đấu. Hãy dám đặt mục tiêu lớn, dám bắt đầu từ những việc nhỏ và không bỏ cuộc giữa đường. Khi nỗ lực hết mình, ngay cả khi chưa thành công, ta vẫn có quyền tự hào vì đã sống trọn vẹn một thời tuổi trẻ. --- ​​​

PHẦN II. VIẾT (6.0 điểm) Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường: Môi trường là nền tảng duy trì sự sống của mọi sinh vật trên Trái Đất, trong đó có con người. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động sinh thái, mà còn là hành động đạo đức, thể hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cộng đồng và các thế hệ tương lai. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt với thiên tai, hạn hán, cháy rừng và băng tan, nếu không có những hành động kịp thời, con người sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần. Thậm chí, như bài đọc hiểu đã nêu, nỗi tiếc thương sinh thái đang khiến nhiều cộng đồng và thế hệ trẻ rơi vào khủng hoảng hiện sinh. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là gìn giữ hệ sinh thái, mà còn là gìn giữ chính tâm hồn và bản sắc văn hoá của loài người. Mỗi hành động nhỏ, từ tiết kiệm nước, trồng cây đến nâng cao nhận thức cộng đồng, đều góp phần tạo nên một tương lai xanh, an toàn và bền vững. --- Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ: Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống thanh cao, thoát tục và trí tuệ. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ, nhưng lại từ hai góc nhìn và tâm thế khác nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện người ẩn sĩ như một triết nhân tự tại, chủ động rút lui khỏi chốn thị phi để tìm sự an nhiên nơi thiên nhiên. Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” vừa giản dị, vừa đầy chất sống ung dung, gợi nên sự thanh đạm nhưng không thiếu hạnh phúc. Ông tự xưng “ta dại” để chê “người khôn” – một cách nói mỉa mai xã hội xô bồ, lao xao danh lợi. Cuộc sống của ông gắn liền với thiên nhiên bốn mùa, với bữa cơm quê và bầu rượu dưới bóng cây. Người ẩn sĩ trong thơ ông sống thong dong, có chủ đích, xem phú quý như “chiêm bao” – một cái nhìn tỉnh táo và minh triết. Trong khi đó, Nguyễn Khuyến lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, thấm đượm nỗi cô đơn và suy tư. Cảnh vật trong bài thơ mang vẻ đẹp lạnh lẽo, trầm buồn: “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc”, “song thưa”, “mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”… đều gợi sự hoài niệm. Người ẩn sĩ trong bài thơ như muốn hòa mình vào cảnh, song vẫn mang nỗi cảm thán nhẹ nhàng: “nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – biểu hiện của sự khiêm nhường, tự trách vì chưa đạt được lý tưởng sống siêu thoát như bậc cổ nhân. Ở đây, ẩn sĩ không chỉ là người trốn tránh trần thế, mà còn là người đang tự đối thoại, soi chiếu nội tâm. Cả hai nhà thơ đều gửi gắm khát vọng sống thanh cao, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về chủ động rút lui để an nhiên, còn Nguyễn Khuyến mang nhiều trăn trở, suy tư. Dù vậy, cả hai đều cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của bậc nho sĩ: coi trọng đạo lý, xa rời danh lợi, tìm sự yên tĩnh giữa thiên nhiên để giữ gìn nhân cách. Qua hai bài thơ, người đọc nhận ra rằng hình tượng người ẩn sĩ không hề xa rời cuộc sống, mà là phản ánh một thái độ sống đáng trân trọng: khi xã hội đầy nhiễu nhương, sự quay về với thiên nhiên và nội tâm lại là con đường để giữ lấy sự tự do và trong sạch của tâm hồn. --- ​

PHẦN II. VIẾT (6.0 điểm) Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường: Môi trường là nền tảng duy trì sự sống của mọi sinh vật trên Trái Đất, trong đó có con người. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là hành động sinh thái, mà còn là hành động đạo đức, thể hiện trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với cộng đồng và các thế hệ tương lai. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt với thiên tai, hạn hán, cháy rừng và băng tan, nếu không có những hành động kịp thời, con người sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần. Thậm chí, như bài đọc hiểu đã nêu, nỗi tiếc thương sinh thái đang khiến nhiều cộng đồng và thế hệ trẻ rơi vào khủng hoảng hiện sinh. Vì vậy, bảo vệ môi trường không chỉ là gìn giữ hệ sinh thái, mà còn là gìn giữ chính tâm hồn và bản sắc văn hoá của loài người. Mỗi hành động nhỏ, từ tiết kiệm nước, trồng cây đến nâng cao nhận thức cộng đồng, đều góp phần tạo nên một tương lai xanh, an toàn và bền vững. --- Câu 2 (4.0 điểm): Bài văn nghị luận so sánh hình tượng người ẩn sĩ trong hai bài thơ: Trong văn học trung đại Việt Nam, hình tượng người ẩn sĩ là biểu tượng cho lối sống thanh cao, thoát tục và trí tuệ. Hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến đều khắc họa hình ảnh người ẩn sĩ, nhưng lại từ hai góc nhìn và tâm thế khác nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện người ẩn sĩ như một triết nhân tự tại, chủ động rút lui khỏi chốn thị phi để tìm sự an nhiên nơi thiên nhiên. Hình ảnh “một mai, một cuốc, một cần câu” vừa giản dị, vừa đầy chất sống ung dung, gợi nên sự thanh đạm nhưng không thiếu hạnh phúc. Ông tự xưng “ta dại” để chê “người khôn” – một cách nói mỉa mai xã hội xô bồ, lao xao danh lợi. Cuộc sống của ông gắn liền với thiên nhiên bốn mùa, với bữa cơm quê và bầu rượu dưới bóng cây. Người ẩn sĩ trong thơ ông sống thong dong, có chủ đích, xem phú quý như “chiêm bao” – một cái nhìn tỉnh táo và minh triết. Trong khi đó, Nguyễn Khuyến lại vẽ nên một bức tranh thu tĩnh lặng, thấm đượm nỗi cô đơn và suy tư. Cảnh vật trong bài thơ mang vẻ đẹp lạnh lẽo, trầm buồn: “cần trúc lơ phơ”, “nước biếc”, “song thưa”, “mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”… đều gợi sự hoài niệm. Người ẩn sĩ trong bài thơ như muốn hòa mình vào cảnh, song vẫn mang nỗi cảm thán nhẹ nhàng: “nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” – biểu hiện của sự khiêm nhường, tự trách vì chưa đạt được lý tưởng sống siêu thoát như bậc cổ nhân. Ở đây, ẩn sĩ không chỉ là người trốn tránh trần thế, mà còn là người đang tự đối thoại, soi chiếu nội tâm. Cả hai nhà thơ đều gửi gắm khát vọng sống thanh cao, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về chủ động rút lui để an nhiên, còn Nguyễn Khuyến mang nhiều trăn trở, suy tư. Dù vậy, cả hai đều cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của bậc nho sĩ: coi trọng đạo lý, xa rời danh lợi, tìm sự yên tĩnh giữa thiên nhiên để giữ gìn nhân cách. Qua hai bài thơ, người đọc nhận ra rằng hình tượng người ẩn sĩ không hề xa rời cuộc sống, mà là phản ánh một thái độ sống đáng trân trọng: khi xã hội đầy nhiễu nhương, sự quay về với thiên nhiên và nội tâm lại là con đường để giữ lấy sự tự do và trong sạch của tâm hồn. --- ​