

TRẦN THỊ THÙY LINH
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Trong đoạn trích từ tác phẩm "Sống mòn" của Nam Cao, nhân vật Thứ hiện lên như một hình mẫu điển hình của những con người tài năng nhưng lại phải sống trong cảnh bần cùng, nghèo khổ hay gọi là có tài nhưng không gặp thời. Thứ là một người thất nghiệp tuy vậy ẩn sâu trong con người anh là một người trí thức đầy khát vọng,luôn hoài niệm về những ước mơ cao đẹp từng nung nấu trong lòng. Thế nhưng nỗi chua xót trước thực tại tăm tối của cuộc sống khiến Thứ không thể không cảm nhận được sự tù túng ; gian khổ mà mình đang phải trải qua.Qua những dòng suy tư của Thứ , em thấy rõ sự trái ngược của hai khái niệm: khát vọng mong muốn và thực tại phũ phàng. Anh khao khát được sống một cuộc đời đáng giá, không bị bó hẹp bởi những lo toan nhàm chán nhưng thực tế lại buộc anh phải chăm chăm vào việc kiếm ăn, thiếu thốn . Tâm trạng bi thương của anh thể hiện tư tưởng triết lý sâu sắc của Nam Cao cái đói khổ, cái nghèo nàn, bi kịch trong đời sống con người, khi mà phải lo Cơm áo gạo tiền để rồi quên bẵng mất đi khát vọng muốn đạt được. Và đặc biệt câu hỏi của nhân vật Thứ "Sống làm gì cho cực?"đã nói lên nỗi hoài nghi về giá trị cuộc sống, nói lên tiếng lòng của bao phận người khác trong xã hội , nơi đất khách quê người.Nghệ thuật khắc họa tinh thần khi bị trói buộc bởi thực tại phũ phàng, Thứ đại diện cho nhiều con người khao khát vượt lên hoàn cảnh nhưng đã vô tình bị trói buộc bởi những xiềng xích của nghèo đói , cuộc sống.Từ đó khắc sâu trong lòng người đọc những suy ngẫm , suy tư về giá trị sống , khát vọng tự do trong cuộc đời.
Câu 1: Điểm nhìn của người kể chuyện là điểm nhìn hạn trị, điểm nhìn bên trong – người kể chuyện ngôi thứ ba nương vào cảm nhận, suy nghĩ của nhân vật Thứ để kể.
Câu 2: Ước mơ của Thứ khi ngồi trên ghế nhà trường là “đỗ thành chung”, “đỗ tủ tài”, “vào đại học đường”, “sang Tây”, rồi sẽ “thành một vĩ nhân đem những sự thay đổi lớn lao đến cho xứ sở mình” (Học sinh có thể dẫn trực tiếp thông tin trong văn bản hoặc cũng có thể tóm tắt thông tin và trả lời, đảm bảo ý. Ước mơ của Thứ khi ngồi trên ghế nhà trường là đỗ đạt, thành tài và trở thành người có đóng góp lớn cho xã hội).
Câu 3: (1) Biện pháp điệp cấu trúc (Y sẽ.../ Đời y sẽ.../ ... sẽ khinh y/ ... chết mà chưa...): có tác dụng nhấn mạnh những nhận thức, hình dung về cuộc sống mòn mỏi, vô nghĩa của nhân vật Thứ về tương lai phía trước của mình; đồng thời tạo nên nhịp điệu gợi cảm cho câu văn; giúp người đọc có thể tưởng tượng được cuộc sống “mòn” đầy bi kịch của người trí thức trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, đồng thời hiểu, đồng cảm sâu sắc với tâm trạng đau khổ của nhân vật. (2) Biện pháp ẩn dụ: “đời” – “mốc lên”, “gỉ đi”, “mòn”, “mục” ra: có tác dụng gợi lên một cách sinh động về cuộc sống vô nghĩa, lụi tàn từng ngày mà nhân vật sẽ phải nếm trải trong hình dung của mình; thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm. (3) Biện pháp liệt kê tăng cấp: liệt kê một chuỗi những điều Thứ hình dung về cuộc sống tương lai của mình (chẳng có việc gì làm, ăn bám vợ/ mốc lên, gỉ đi, mòn, mục ra ở một xó nhà quê); trong đó nhân vật cảm nhận được sự khinh thường của mọi người và chính bản thân mình (Người ta sẽ khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y); có tác dụng gợi lên một cách sinh động và nhấn mạnh về cuộc sống vô nghĩa, lụi tàn cứ rõ nét từng ngày cũng như cảm xúc tổn thương, mặc cảm mà nhân vật sẽ phải nếm trải trong hình dung của mình; từ đó góp phần thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm. (4) Biện pháp nghịch ngữ: “chết mà chưa sống”, có tác dụng khắc hoạ và nhấn mạnh bi kịch mà nhân vật phải nếm trải: “chết” ở đây là “chết” về mặt tinh thần; “sống” ở đây là “sống” thực sự, sống có ý nghĩa. Từ đó, góp phần thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm...
Câu 4: Nhận xét về cuộc sống và con người của nhân vật Thứ được thể hiện trong đoạn trích: (1) Cuộc sống của nhân vật Thứ: Cuộc sống đầy bi kịch, ngày càng khó khăn, mòn mỏi trong việc kiếm kế sinh nhai để lo cho bản thân và gia đình, không thực hiện được những ước mơ của đời mình. (2) Con người nhân vật Thứ: là con người đầy hoài bão, khát vọng; con người có đời sống nội tâm phong phú, có khả năng nhận thức sâu sắc về cuộc sống và bản thân mình.
Câu 5: Suy nghĩ về triết lí “sống là phải làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời mình”. Đây là một triết lí sâu sắc bởi lẽ: mỗi người là một bản thể duy nhất, mỗi người chỉ có cơ hội sống một lần. Cuộc sống là sự trải nghiệm của mỗi cá nhân.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái luôn là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất. Từ xưa, tôn ti trật tự trong gia đình luôn là điều rất quan trọng, con cái phải nghe lời cha mẹ, từ đó dẫn đến một quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", quan niệm đã dần trở nên phổ biến ở thời phong kiến. Nhưng dường như quan niệm này lại xâm chiếm hết mọi mặt của rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Và trong hôn nhân, quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" là một quan niệm không đúng đắn và cần được loại bỏ.
Quan niệm "Cha mẹ ngồi đâu con ngồi đấy" là thể hiện sự quyền lực của cha mẹ trong gia đình, con cái phải theo cha mẹ, không được làm trái lại; ngoài ra nhiều người còn hiểu theo nghĩa là con cái nên theo cha mẹ vì cha mẹ là người đi trước, là người có kinh nghiệm trong cuộc sống. Và đặc biệt trong hôn nhân, cha mẹ còn hiểu rõ hơn nữa, họ hiểu rằng sẽ có sự sụp đổ, cãi vã hay yêu thường chăm sóc. Nhưng sự sắp đặt của cha mẹ trong hôn nhân liệu có thể giúp đỡ được con cái họ có cuộc sống tốt hơn, hay chỉ lại nhận lại sự đau khổ. Bởi vốn dĩ hôn nhân xuất phát từ tình cảm tự phát, là sự rung động, yêu thường từ cả hai phía, hai người phải có đủ quãng thời gian để có thể thấu hiểu, cảm thông lẫn nhau mới có thể đi tới được hôn nhân. Hai mảnh ghép phải là một nửa của nhau mới có thể hoàn hảo được, hôn nhân cũng vậy, làm sao có thể ghép tạm bợ người này với người khác mà không có một sự gắn kết nào. Cha mẹ có thể có kinh nghiệm trong hôn nhân, nhưng mỗi thời mỗi khác, mỗi người mỗi khác vì vậy không thể nào bắt ép con cái mình đến với người mà con họ không yêu, không thương. Nếu hôn nhân là do sự sắp xếp thì con cái họ sẽ không nhận được tình yêu thường và cũng không thể trao đi yêu thương. Trong trường hợp con cái đã có một người để yêu mà phải kết hôn với một người vô cùng lạ thì con cái sẽ cảm nhận được tình cảm của mình không được tôn trọng, sự chia li đó sẽ khiến tâm trạng suy sụp. Tình cảm là thứ không thể bắt ép và hôn nhân cũng vậy, phải đi từ từ, vậy mà quan niệm ấy lại đưa con cái vào hoàn cảnh đó. Quan điểm này phổ biến khi hai gia đình cùng làm ăn, hợp tác sẽ mai mối con cái họ với nhau, nhưng dường như đây hành động dùng con cái để duy trì sự nghiệp của cha mẹ.
Hơn thế nữa, xã hội ngày càng phát triển, con người tiếp cận những tri thức, thông tin, văn hóa và bản sắc riêng của mỗi con người trong thời đại bây giờ lại càng mạnh mẽ hơn. Do đó con cái sẽ có những quan điểm riêng và sẽ tìm hiểu để đưa ra những quyết định đúng đắn của mình. Nhưng liệu quan niệm ấy có tiếp diễn được không nếu như con cái không có cho mình sự quyết định, sự cứng rắn đúng đắn trong cuộc sống, đặc biệt là trong hôn nhân. Không hoàn toàn do cha mẹ mà trong đó vẫn có sự quyết đoán của con cái.
Qua đó thấy được quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" dần trở nên cổ hủ, lạc hậu và không thể áp dụng được, nhất là trong hôn nhân. Giữa con cái và cha mẹ cần có sự liên kết, thấu hiểu nhau hơn: cha mẹ chia sẻ kinh nghiệm, đưa ra lời khuyên, con cái lắng nghe và đưa ra quan điểm. Để từ đó mà hôn nhân cũng như cuộc sống của con cái và cha mẹ sau này sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Hai dòng thơ hiện rõ sự so sánh giữa "thân em" - người con gái trong xã hội phong kiến xưa - và những loài vật nhỏ bé, thân phận thấp hèn "bọ ngựa", "chẫu chuộc". Họ "ngẫm", ngẫm cái số phận cuộc đời phụ nữ thấp hèn, không có tiếng nói, phải chịu nhiều bất hạnh, chỉ có thể than khóc, chịu đựng mọi đau khổ của họ. Cái xã hội ấy hà khắc đối với cuộc đời của con người nhỏ bé, chia cắt cuộc đời họ đến với những điều mới, điều tốt hơn, đặc biệt chôn sống cuộc đời người phụ nữ bởi thứ luật lệ vô lý. Qua đó tác giả nhấn mạnh giá trị thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội xưa; lên án, phê phán một xã hội bất công và sự đồng cảm đối với cuộc đời người phụ nữ trong xã hội ấy.
-Tăng cường tính biểu cảm: Câu thơ trở nên mạnh mẽ, trực tiếp, bộc lộ rõ nét nỗi nhớ da diết, đau khổ của nhân vật.
-Câu thơ gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, khơi gợi sự đồng cảm.
-Thể hiện sự đau khổ tột cùng: Câu thơ cho thấy nỗi nhớ của nhân vật đã vượt quá giới hạn của ngôn ngữ, nó như xé nát cả tâm hồn.
=> Câu thơ này đã phá vỡ cấu trúc ngữ pháp thông thường, tạo nên một hiệu quả nghệ thuật đặc biệt.
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.