ĐÀO THU THỦY

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của ĐÀO THU THỦY
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

câu 1:

Đồng ý với ý kiến. 

- Giải thích: Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là thắng lợi oanh liệt, đánh dấu một mốc son trong lịch sử dân tộc Việt Nam và mở ra thời kì chiến tích huy hoàng của những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới ách nô lệ của thực dân phong kiến phương Bắc. 

+ Cuộc khởi nghĩa của hai Bà là cuộc khởi nghĩa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do phụ nữ lãnh đạo.

+ Cuộc khởi nghĩa nổ ra làm chấn động cả cõi Nam.

+ Từ trong ngọn lửa của cuộc nổi dậy oanh liệt ấy tỏa ra chân lý lịch sử “Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng tự mình đã dựng nên, làm chủ đất nước và số phận mình.

+ Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là sự kết tinh của cả một quá trình đấu tranh lâu dài, khi thì âm thầm, lúc thì lại công khai của nhân dân Việt Nam. Đây là một phong trào nổi dậy của toàn dân, vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ.

+ Đây là cuộc khởi nghĩa chống sự cai trị của Trung Quốc đầu tiên của người Việt trong 1000 năm Bắc thuộc.

+ Hai Bà Trưng đã dựa vào nhân dân khôi phục lại sự nghiệp cũ của vua Hùng. Cuộc khởi nghĩa là sự phủ nhận hiên ngang cường quyền của các triều đại phương Bắc coi các dân tộc xung quanh là “Man Di” (“man tộc”, “man rợ” hay “mọi rợ”), thuộc quốc buộc phải phục tùng “thiên triều”, “thiên tử”, phủ nhận tư tưởng “tôn quân, đại thống nhất”.

+ Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng do phụ nữ là lãnh đạo khởi nghĩa, trong thế giới tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của đế chế Hán cổ đại, được xem là sự đối chọi quyết liệt về văn hóa, nếp sống, nếp tư duy của đôi bên Nam – Bắc, Việt – Hán. Vì vậy, việc Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa phần nào đã giúp nâng cao vị thế của phụ nữ xưa trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

 Tục ngữ có câu: ” Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Quả đúng không sai, từ xa xưa, phụ nữ Việt Nam đã được Bác Hồ ngợi ca với 8 chữ vàng: ” Anh hùng – Bất khuất – Trung Hậu – Đảm Đang”. Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo là một trang sử vô cùng đẹp đẽ trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nó làm rạng rỡ dân tộc ta nói chung và làm vẻ vang cho phụ nữ nói riêng.


câu 2:

khảo:

- Những việc học sinh có thể làm để góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc:

+ Chủ động tìm hiểu các tư liệu lịch sử, pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế,… để có nhận thức đúng đắn về vấn đề: chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông.

+ Quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước.

+ Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt là các chủ trương, chính sách liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo; đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

+ Phê phán, đấu tranh với những hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam; những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc; 

+ Tích cực tham gia, hưởng ứng các phong trào bảo vệ chủ quyền biển đảo, ví dụ như: “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”… 

Trong dòng chảy hối hả của xã hội hiện đại, khi công nghệ, toàn cầu hóa và các xu hướng mới không ngừng du nhập, con người có thể dễ dàng đánh mất cội nguồn văn hóa của chính mình. Trước thực trạng ấy, việc giữ gìn và bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống không chỉ là một hành động mang tính trách nhiệm, mà còn là biểu hiện cao đẹp của lòng tự tôn dân tộc và sự gìn giữ bản sắc của một cộng đồng.

Văn hóa truyền thống là tất cả những gì tinh túy được hun đúc qua bao thế hệ – từ phong tục tập quán, lối sống, tiếng nói, chữ viết, lễ nghi, nghệ thuật dân gian, cho đến những giá trị đạo đức, lối ứng xử mang tính nhân văn sâu sắc. Đó là tài sản vô giá mà cha ông để lại, là cội rễ để một dân tộc có thể đứng vững giữa muôn vàn đổi thay của thời cuộc. Bởi không có một cây cổ thụ nào có thể tồn tại nếu đánh mất bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.

Trong đời sống hiện đại, giữ gìn văn hóa truyền thống không có nghĩa là bảo thủ hay khép kín với cái mới, mà là biết trân trọng quá khứ để làm nền tảng xây dựng tương lai. Đó có thể là việc duy trì nếp sống gia đình tôn kính ông bà, hiếu thuận cha mẹ; là việc mặc áo dài trong ngày lễ trọng, gìn giữ tiếng mẹ đẻ trong cách nói năng thường ngày; hay đơn giản hơn, là cách giới trẻ tìm về các làn điệu dân ca, những giá trị lễ hội và nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, ca trù,… Trong bối cảnh hội nhập, việc bảo vệ văn hóa dân tộc chính là cách để ta định vị bản thân, không bị hòa tan giữa muôn vàn sắc màu văn hóa thế giới.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng một bộ phận giới trẻ ngày nay đang dần xa rời những giá trị truyền thống. Họ bị cuốn vào vòng xoáy của lối sống hiện đại, thực dụng, chuộng hình thức, đôi khi còn xem thường hoặc cố tình phai nhạt những tập tục xưa. Nguyên nhân không chỉ đến từ tác động của toàn cầu hóa, mà còn từ sự thiếu giáo dục văn hóa trong gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, cần có sự vào cuộc đồng bộ từ các cấp – từ chính sách văn hóa quốc gia đến hành vi thường nhật của mỗi cá nhân. Việc giáo dục văn hóa không nên là khẩu hiệu, mà phải đi vào đời sống – bằng cách khơi dậy niềm tự hào dân tộc, khuyến khích thế hệ trẻ chủ động tìm hiểu và tiếp nối.

Bảo vệ văn hóa truyền thống không chỉ là giữ lại cái đã có, mà còn là làm sống lại, thổi hồn vào những giá trị xưa để chúng hòa mình vào cuộc sống hôm nay. Một dân tộc chỉ có thể phát triển bền vững khi biết gìn giữ hồn cốt của mình trong từng bước đi tiến bộ. Đó là cách mà chúng ta vừa làm giàu bản sắc, vừa hội nhập mà không hòa tan.

Trong bài thơ Chân quê, Nguyễn Bính đã khắc họa hình ảnh nhân vật “em” như một biểu tượng của vẻ đẹp truyền thống, đậm đà bản sắc quê hương và cũng là nơi gửi gắm những trăn trở tinh tế về sự đổi thay của con người trước làn sóng văn minh đô thị. “Em” trong bài thơ không chỉ là một cô gái nông thôn bình dị, mà còn là hiện thân của nét đẹp thuần phác, nền nã trong tâm tưởng nhà thơ: “Hôm qua em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc khi vẻ đẹp “chân quê” đang phai nhạt bởi ảnh hưởng của lối sống thị thành. Trước kia, em là cô gái mộc mạc, không son phấn, không áo lụa thướt tha, chính sự giản dị ấy lại gợi cảm giác gần gũi, yêu thương. Nhưng sau chuyến đi, em đã khác – từ cách ăn mặc, lời ăn tiếng nói, đến cả ánh mắt, dáng điệu. Qua đó, Nguyễn Bính không hề lên án em, mà là xót xa, nuối tiếc cho một vẻ đẹp đang dần bị thời cuộc cuốn trôi. Nhân vật “em” chính là hình ảnh phản chiếu của một lớp người trẻ ở nông thôn, đang đứng giữa hai lằn ranh: giữ gìn bản sắc hay chạy theo cái mới. Qua hình tượng này, nhà thơ gửi gắm một lời nhắn tha thiết: hãy trân trọng những giá trị truyền thống – bởi đó chính là gốc rễ làm nên tâm hồn Việt.

- Thông điệp: hãy giữ gìn nét văn hóa truyền thống của quê hương, đừng chạy theo xu hướng, theo cái mới cái đẹp mà đánh mất vẻ đẹp thực sự

"Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều"

- Biện pháp: ẩn dụ

- Tác dụng:

+ Tăng sức gợi hình, gợi cảm

+ Thể hiện vẻ đẹp chân chất, thật thà , trong sáng của người con gái miền quê đã không còn như lúc xưa, đã vơi đi phần nào

+ Sự xót xa, hụt hẫng của tác giả trước sự thay đổi của người con gái mình yêu

-Những loại trang phục trong bài thơ:

+ áo cài khuy bấm

+ cái yếm lụa sồi

+ cái dây lưng đũi

+ cái áo tứ thân

+ cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen

+ khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm

=> Đại diện cho sự giản dị, dịu dàng, mộc mạc của nhân vật "em" đã dần thay đổi thành sự ăn diện hơn, không còn trong sáng, chất phác như trước kia

ý nghĩa nhan đề "Chân quê":

- Gợi vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của vùng thôn quê

- Gợi sự giản đơn, chân chất, thật thà của con người miền quê

Bài thơ "Chân quê" của Nguyễn Bính được viết theo thể thơ lục bát