

NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1.
Trong xã hội hiện đại đầy biến động và cạnh tranh khốc liệt, lối sống chủ động ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Sống chủ động không chỉ là biết lên kế hoạch cho tương lai mà còn là khả năng tự giác, tự lập và sẵn sàng thích ứng với hoàn cảnh. Người sống chủ động không chờ đợi may mắn đến mà tự tạo ra cơ hội cho chính mình. Họ biết xác định mục tiêu, lên kế hoạch rõ ràng và kiên trì thực hiện để đạt được điều mong muốn. Chính thái độ sống tích cực này giúp họ dễ dàng vượt qua khó khăn, nâng cao giá trị bản thân và thành công trong công việc lẫn cuộc sống. Ngược lại, những ai sống thụ động, chỉ biết trông chờ vào người khác hay hoàn cảnh thường dễ rơi vào trạng thái trì trệ, bị động và đánh mất cơ hội. Vì vậy, trong thời đại 4.0 với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thử thách, mỗi người trẻ càng cần rèn luyện cho mình lối sống chủ động để làm chủ cuộc đời mình, vững vàng tiến bước trên con đường phát triển toàn diện.
câu 2
Nguyễn Trãi là một trong những cây đại thụ của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông không chỉ là nhà quân sự, nhà chính trị lỗi lạc mà còn là nhà văn, nhà thơ lớn với tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân sâu sắc. Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ của mình, “Bảo kính cảnh giới” là một tập thơ chữ Nôm tiêu biểu, phản ánh trọn vẹn tâm hồn và lý tưởng sống cao đẹp của Nguyễn Trãi. Bài 43 trong tập thơ này là một trong những bài thơ nổi bật, thể hiện sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, đồng thời bộc lộ lý tưởng sống, tâm hồn thanh cao và tinh thần yêu nước thiết tha của ông.
Rồi hóng mát thuở ngày trường.
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Mở đầu bài thơ là câu “Rồi hóng mát thuở ngày trường”, như một lời gợi mở nhẹ nhàng về nhịp sống thư thái, bình yên của tác giả. Từ “rồi” thể hiện một trạng thái rảnh rỗi, thong dong, không vướng bận lo toan. Trong khung cảnh ấy, nhà thơ thảnh thơi dạo chơi, ngắm cảnh, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. Đó là khoảng thời gian quý giá, thể hiện sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên trong một không gian thanh tĩnh và tươi đẹp.
Hai câu thơ tiếp theo là những hình ảnh giàu màu sắc và sức gợi:
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ tượng hình độc đáo như “đùn đùn”, “phun”, “trương” để miêu tả cảnh sắc mùa hè đầy sức sống. Cây hoè xanh tốt, tán lá sum suê như tràn ra khắp không gian, tạo thành bóng râm rợp mát. Những bông hoa lựu đỏ rực như “phun” trào sắc màu nơi hiên nhà, tạo nên một khung cảnh sống động, tràn đầy sinh khí. Cảnh vật được quan sát từ gần đến xa, từ trên cao xuống thấp, không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn mang cảm xúc dạt dào.
Tiếp theo, nhà thơ lại đưa người đọc đến một góc khác của khung cảnh thiên nhiên:
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Hình ảnh hoa sen trong ao – “hồng liên trì” – gợi nhắc đến sự thanh khiết, cao quý. Từ “tịn” (ngấm, thấm) được dùng rất tinh tế, thể hiện hương sen không nồng mà nhẹ nhàng, lan tỏa, tạo cảm giác mát mẻ, yên bình, đưa con người vào trạng thái thư thái, an nhiên. Cả ba câu thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè đặc sắc với màu xanh mướt của cây hoè, sắc đỏ của lựu, hương sen ngan ngát – tất cả như hòa quyện, làm nên vẻ đẹp thanh cao, tĩnh lặng mà sinh động vô cùng.
Không dừng lại ở việc miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Trãi còn đưa vào bức tranh ấy âm thanh và hình ảnh sinh hoạt đời thường:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Nếu thiên nhiên ở trên là tĩnh, thì hai câu thơ này lại đưa người đọc vào không gian động. “Chợ cá làng ngư phủ” với âm thanh “lao xao” tạo cảm giác náo nhiệt, sinh động. Đó là âm thanh của cuộc sống, của người dân lao động cần cù, thể hiện một làng quê trù phú và ấm no. Âm thanh của “cầm ve” vào buổi chiều tà – “lầu tịch dương” – lại gợi cảm giác sâu lắng, mang chút hoài niệm, chút trầm mặc. Cảnh và âm như quyện vào nhau: một bên là sự sống sôi động, một bên là sự tĩnh lặng sâu lắng. Điều này phản ánh rõ quan điểm sống của Nguyễn Trãi: sống hòa mình với thiên nhiên, lắng nghe cuộc sống, cảm nhận từng chuyển động dù nhỏ nhất.
Hai câu thơ cuối là kết tinh của tư tưởng lớn trong thơ Nguyễn Trãi:
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Hình ảnh “Ngu cầm đàn một tiếng” là biểu tượng cho lý tưởng trị quốc an dân. Ngu cầm vốn là cây đàn gắn liền với vua Nghiêu, Thuấn – những vị vua hiền thời cổ đại, nổi tiếng với chính trị nhân đức, chăm lo cho dân. Việc “đàn một tiếng” chính là sự gợi nhắc khát vọng được sống trong một xã hội lý tưởng – nơi mà người dân an cư lạc nghiệp, no đủ, hạnh phúc. Câu thơ cuối “Dân giàu đủ khắp đòi phương” không chỉ là lời mô tả thực tại mà còn là một ước mơ cao đẹp. Trong tâm tưởng của Nguyễn Trãi, một cuộc sống lý tưởng không phải nơi cung điện quyền uy mà là một đất nước thái bình, nơi dân chúng được sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc. Đó chính là cốt lõi tư tưởng "lấy dân làm gốc" của ông – một nhà tư tưởng tiến bộ vượt thời đại.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng ngôn ngữ lại gần gũi, thuần Việt, dễ hiểu, thể hiện rõ sự tài hoa của Nguyễn Trãi trong việc Việt hóa hình thức thơ Đường. Hình ảnh thơ phong phú, cách dùng từ ngữ tinh tế, chọn lọc và gợi cảm, giàu tính tạo hình. Nhịp thơ linh hoạt, uyển chuyển, góp phần làm nổi bật không gian thanh tĩnh mà giàu sức sống của thiên nhiên và con người.
Tóm lại, bài 43 trong “Bảo kính cảnh giới” là một trong những thi phẩm đặc sắc của Nguyễn Trãi, không chỉ miêu tả cảnh sắc mùa hè tươi đẹp mà còn gửi gắm lý tưởng sống cao cả và tư tưởng nhân nghĩa lớn lao. Qua bài thơ, ta cảm nhận được một tâm hồn thanh cao, gắn bó với thiên nhiên, yêu quê hương, yêu con người và luôn trăn trở về sự bình yên, hạnh phúc của muôn dân. Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà thơ, mà còn là một người trí thức lớn, suốt đời vì dân, vì nước, để lại tấm gương sáng ngời cho muôn đời sau học hỏi và noi theo.
Câu 1 :
Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Câu 2 :
Những hình ảnh nói về nét sinh hoạt hàng ngày đạm bạc, thanh cao của tác giả gồm:
- "Một mai, một cuốc, một cần câu": những dụng cụ lao động giản dị, gắn với cuộc sống nông thôn.
- "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá": thức ăn thanh đạm, lấy từ thiên nhiên.
- "Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao": sinh hoạt hòa mình với thiên nhiên, giản dị mà thanh cao.
=> Những hình ảnh này cho thấy lối sống giản dị, gần gũi với thiên nhiên và không vướng bận bon chen danh lợi.
Câu 3 :
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong câu:
- “Một mai, một cuốc, một cần câu”
Phân tích tác dụng:
- Biện pháp liệt kê "một mai, một cuốc, một cần câu" gợi lên hình ảnh cụ thể về những vật dụng gắn liền với cuộc sống lao động thanh nhàn.
- Qua đó, thể hiện quan điểm sống an nhàn, hòa hợp với thiên nhiên, không màng danh lợi của tác giả.
- Đồng thời nhấn mạnh sự tự tại, thảnh thơi trong sinh hoạt thường nhật.
Câu 4 :
Quan niệm dại – khôn của tác giả có điểm đặc biệt:
- Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là "dại" vì tìm đến nơi vắng vẻ, tránh xa cuộc sống xô bồ.
- Ông gọi người đến chốn “lao xao” là khôn, tức những người bon chen danh lợi, ưa náo nhiệt.
=> Quan niệm này ngược với cách nhìn thông thường của xã hội, thể hiện cái nhìn triết lý sâu sắc và thái độ tự chủ trong lựa chọn lối sống. Với tác giả, “dại” là khôn ngoan trong sự an nhàn, còn “khôn” lại là mê muội chạy theo danh vọng.
Câu 5 :
Đoạn văn cảm nhận vẻ đẹp nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Bài thơ “Nhàn” cho thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có nhân cách cao đẹp, sống thanh cao, giản dị và hòa mình với thiên nhiên. Ông coi thường công danh, phú quý và lựa chọn cuộc sống ẩn dật để giữ gìn phẩm chất thanh sạch. Sự an nhàn của ông không phải là trốn tránh, mà là một lối sống chủ động, thể hiện trí tuệ và bản lĩnh. Vẻ đẹp nhân cách ấy khiến ông trở thành hình mẫu của bậc trí sĩ trong văn học trung đại Việt Nam.