Nguyễn Thị Huyền

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Thị Huyền
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Đó là cuộc khởi nghĩa của hoàng thân Si - vô - tha


Đó là khởi nghĩa của hoàng thân Si - vô - tha


Điểm tương đồng trong hai cuộc kháng chiến trên đó là ở cách kết thúc chiến tranh: chủ động giảng hòa để giữ hòa hiếu


* Kết quả: 

- Cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông đã làm cho bộ máy nhà nước trở nên quy củ, chặt chẽ, tập trung cao độ, để cao quyền hành toàn diện của hoàng đế.

- Các chức danh được quy định rõ ràng, hệ thống giảm sát được tăng cường, hạn chế sự tập trung quyền lực dẫn đến chuyên quyền và nguy cơ cát cứ.

* Ý nghĩa:

- Góp phần khẳng định quyền sở hữu tối cao của Nhà nước

- Tạo nền tảng cho kinh tế nông nghiệp phát triển

- Chính sách giáo dục, khoa cử đã đào tạo được hệ thống quan lại trí thức có tài, đủ năng lực quản lí đất nước

- Làm chuyển biến toàn bộ các hoạt động của quốc gia, tạo cơ sở cho Vương triều Lê sơ phát triển vững mạnh, đất nước hưng thịnh

* Hành chính:

- Ở trung ương, Lê Thánh Tông xóa bỏ hầu hết các chức quan đại thần có quyền lực lớn, chỉ giữ lại một số ít quan đại thần để cùng vua bàn bạc công việc khi cần thiết. Vua nắm mọi quyền hành và trực tiếp chỉ đạo các cơ quan chuyên môn.

Tổ chức hoàn thiện cơ cấu, chức năng của lục Bộ (sáu bộ) đồng thời, đặt ra lục Tự (sáu tự) để giúp việc cho lục Bộ, lục Khoa (sáu khoa) để theo dõi, giám sát hoạt động của lục Bộ.

- Ở địa phương, năm 1466, vua Lê Thánh Tông xoá bỏ 5 đạo, chia đất nước thành 12 đạo thừa tuyên và phủ Trung Đô (Thăng Long); năm 1469, đổi tên một số đạo thừa tuyên như Quốc Oai thành Sơn Tây, Bắc Giang thành Kinh Bắc, Nam Sách thành Hải Dương, Thiên Trường thành Sơn Nam; năm 1471, đặt thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. Đứng đầu Thừa tuyên là Đô ty, Thừa ty và Hiến ty có quyền ngang nhau, cùng quản lí công việc chung. Dưới đạo thừa tuyên là phủ, huyện, châu và cuối cùng là xã.

Quan lại trong bộ máy nhà nước được tuyển chọn chủ yếu thông qua khoa cử. 

Vua cũng đặt ra lệ định kì kiểm tra năng lực quan lại, ai làm tốt thì được thăng chức, ai phạm lỗi thì bị phạt.

*  Pháp luật:

- Vua Lê Thánh Tông chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lí nhà nước. 

- Năm 1483, Nhà nước ban hành bộ Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức) gồm 722 điều với nhiều quy định mang tính dân tộc sâu sắc như các điều luật bảo vệ phụ nữ, người già, người tàn tật, trẻ em, bảo vệ sản xuất nông nghiệp...

* Quân đội và quốc phòng:

- Năm 1466, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải tổ hệ thống quân đội. 

- Quân đội được chia làm hai loại: quân thường trực bảo vệ kinh thành gọi là cấm binh hay thân binh và quân các đạo, gọi là ngoại binh. 

- Ở mỗi đạo chia binh làm 5 phủ do đô đốc phủ đứng đầu; mỗi phủ gồm 6 vệ; mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. 

- Nhà nước cũng rất chú ý đến rèn luyện quân đội như duyệt binh sĩ hằng năm, quy định cử 3 năm tổ chức một kì thi khảo võ nghệ của quân sĩ và định lệ thưởng phạt.

*  Kinh tế:

- Vua Lê Thánh Tông ban hành các chính sách phát triển kinh tế như chế độ lộc diễn và chế độ quân điển.

- Chế độ lộc điền là chế độ ban cấp ruộng đất làm bổng lộc cho quý tộc, quan lại cao cấp tử tử phẩm trở lên.

- Chế độ quân điền là chế độ chia ruộng đất thành các phần bằng nhau, ban cấp lần lượt cho quan lại từ tam phẩm trở xuống đến tất cả các tầng lớp nhân dân, trong đó có cả trẻ em mồ côi, đàn bà goá, người tàn tật,... Nguyên tắc ban cấp là ruộng xã nào chia cho dân xã ấy.

* Văn hóa, giáo dục: 

- Vua coi trọng biên soạn quốc sử. Việc sử dụng lễ, nhạc, quy chế thi cử,... cũng được luật hoá nghiêm túc.

- Vua cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái Học viện và lập trường học ở nhiều địa phương. Ông cũng cho dựng bia đá ở Văn Miếu để tôn vinh những người đỗ đại khoa.


* Về chính trị

- Sau khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, triều Lê sơ bước đầu xây dựng bộ máy nhà nước mới, có kế thừa mô hình nhà nước thời Trần, Hồ. 

- Từ thời Lê Thái Tổ đến Lê Nhân Tông, nội bộ triều đình Lê sơ có nhiều mâu thuẫn và biến động, đặc biệt là tình trạng phe cánh trong triều và sự lộng quyền của một bộ phận công thần.

* Về kinh tế – xã hội

- Nền kinh tế Đại Việt sau chiến tranh đã được phục hồi. 

- Tuy vậy, chế độ ruộng đất vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. 

- Một bộ phận nông dân thiếu ruộng đất canh tác, nguồn thu của nhà nước bị ảnh hưởng. 

- Trong xã hội, nạn cường hào lộng hành và quan lại tham ô, nhũng nhiễu ngày càng nhức nhối, tình trạng coi thường pháp luật trở nên phổ biến.


Năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước đã từng bước ổn định. Tuy nhiên, bộ máy hành chính nhà nước bắt đầu bộc lộ một số hạn chế.

+ Ở trung ương, sự tập trung quyền lực chủ yếu trong tay các quan đại thần - những võ quan, công thần trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã ảnh hưởng đến tính tập quyền của nhà nước. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng,… ngày càng phổ biến.

+ Ở địa phương, đất nước rộng lớn nhưng chỉ chia làm 5 đạo (Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây), khiến cho quyền lực của những người đứng đầu mỗi đạo rất lớn. Đây là mầm mống của xu hướng phân tán quyền lực.

=> Trong bối cảnh đó, sau khi lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã từng bước tiến hành cải cách nhằm tăng cường quyền lực của hoàng đế và bộ máy nhà nước.

Một là, chú trọng xây dựng bộ máy hành chính nhà nước.

Vua Lê Thánh Tông đã tiến hành công cuộc cải cách bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, từ dân sự đến quân sự, cả quan chế lẫn thể chế; đã thiết lập một thể chế chính trị quân chủ chuyên chế phong kiến điển hình với quy mô lớn và hoạt động có hiệu quả. Vua Lê chủ trương lấy Nho giáo làm nền tảng để xây dựng một nhà nước quan liêu không đẳng cấp; xây dựng thể chế pháp luật; xây dựng đường lối và phương thức cai trị “Nho quan - Nội pháp”; tiến hành cải cách tổ chức bộ máy nhà nước để khắc phục những hạn chế, yếu kém; nâng cao quyền lực của nhà vua và chính quyền Trung ương; xây dựng bộ máy nhà nước có hiệu lực, hạn chế đến mức nhất sự phân quyền và sự lộng hành của các công thần[1]. Đặc biệt, trong cải cách bộ máy Trung ương, Lê Thánh Tông đã từng bước thực hiện các công việc:

 Lê Thánh Tông mạnh tay bãi bỏ một số chức quan và cơ quan trung gian, Năm 1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quan lại. Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số chức quan đại thần vốn có công nhưng không có học thức, thay vào đó bằng các văn quan được tuyển chọn qua thi cử nhằm hạn chế chia bè, kéo cánh trong triều đình, hạn chế sự thao túng quyền lực của các công thần. Ông trực tiếp quản lý các bộ nhằm hạn chế sự cồng kềnh, quan liêu của bộ máy hành chính.

Về mặt hành chính, Lê Thánh Tông đã cải tổ, chia lại thành 13 đạo (sau đổi là 13 thừa tuyên), đó là: Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Bắc Giang, Nam Sách, Quốc Oai, Thiên Trường, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam. Dưới đạo thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ sở như hương, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36 phường đứng đầu các đạo thừa tuyên là các tuyên phủ sứ. Ở mỗi thừa tuyên có 3 ty: Đô (phụ trách quân đội), Thừa ty (phụ trách dân sự hành chính) và Hiến ty (phụ trách thanh tra giám sát). Các xã được chia thành 3 loại: xã lớn (500 hộ), xã vừa (trên 300 hộ) và xã nhỏ (trên 100 hộ). Chức xã quan do dân bầu, Nhà nước chỉ đạo và xét duyệt, tiêu chuẩn là các giám sinh, sinh đồ, từ 30 tuổi trở lên và có hạnh kiểm tốt.

Hai là, xây dựng đội ngũ quan lại trong cải cách hành chính của triều Lê Sơ.

Lý do:Giữa thế kỉ XV, tình hình kinh tế-xã hội Đại Việt được phục hồi và phát triển, đời sống nhân dân ổn đinh.

- Tuy nhiên, tình trạng phân tán, bè phái trong bộ máy chính quyền, hệ thống hành chính hoạt động thiếu hiệu quả gây nhiều khó khan.

=> Yêu cầu khách quan: Nhanh chóng kiện toàn mô hình nhà nước quân chủ tập quyền, thống nhất từ trung ương đến địa phương, quản lí hiệu quả đội ngũ quan lại, cải cách hành chính, nâng cao vị thế đất nước.


Là đạo e nhé. Dưới cải cách của Lê Thánh Tông, đã chia nước ta thành 13 đạo (năm 1471), sau đổi thành thừa tuyên, đứng đầu là Tuyên phủ sứ. Tại mỗi đạo, chia thành 3 ty: Đô ty (phụ trách quân đội), Thừa ty (phụ trách dân sự hành chính) và Hiến ty (phụ trách thanh tra giám sát).