Thân Thu Hà

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Thân Thu Hà
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1:

Cuộc sống không có những khó khăn thử thách con người sẽ không thành tài. Chính vì thế, chúng ta đừng sợ vấp ngã. Đừng sợ vấp ngã là tinh thần kiên cường, dũng cảm, dám đối đầu với mọi khó khăn, thử thách gây cản trở, làm khó dễ cho bản thân. Khi gặp thất bại mạnh dạn đứng lên và bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Người không sợ vấp ngã là người dám nghĩ dám làm, dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách mà không hề sợ sệt, ngại ngùng. Khi gặp khó khăn trong cuộc sống luôn cố gắng vươn lên, càng khó khăn họ lại càng kiên cường bước tiếp. Đứng trước việc người khác dè dặt, sợ sệt không dám làm thì bản thân dám xông xáo vào làm những việc đó. Khi chúng ta dám làm những việc mà người khác không dám làm, con người ta sẽ đạt được những thành quả mà người khác không thể đạt được. Từ đó sẽ có được những thành công hơn người. Người dũng cảm, không sợ vấp ngã sẽ rèn luyện được cho bản thân những đức tính tốt đẹp khác như: kiên trì, nhẫn nại, chăm chỉ,… và những người này là tấm gương sáng để con người chúng ta học tập và noi theo. Tuy nhiên trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người mới gặp thất bại đã vội nản chí. Lại có những người bi quan, tự ti vào khả năng của mình mà không dám nghĩ dám làm. Nhưng người này sẽ khó chinh phục được bản thân và khó có được thành tựu trong cuộc sống. Thất bại không chỉ là thử thách của cuộc sống mà còn là những bài học quý giá nếu chúng ta vượt qua được nó. Hãy mạnh mẽ, tự tin, kiên trì đứng dậy sau vấp ngã để tạo ra được những giá trị tốt đẹp cho cuộc đời và thấy bản thân mình có nhiều khả năng tiềm ẩn hơn.

Câu 2:

Câu 1: Văn bản trên thuộc văn bản thông tin

Câu 2: Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là nghị luận

Câu 3: Cách đặt nhan đề của tác giả: rõ ràng và chính xác, đã khái quát nội dung của văn bản đó là các nhà thiên văn học đã phát hiện 4 hành tinh trong hệ sao láng giềng của trái đất

Câu 4:

- Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là: hình ảnh mô phỏng sao Barnard và các hành tinh của nó

- Tác dụng: +góp phần làm rõ hình ảnh sao Barnard và các hành tinh của nó đồng thời thấy được sự tài tình của các nhà thiên văn học trong việc tìm ra nó

+ Làm tăng tính trực quan cho người đọc vì vậy tạo ra sự hấp dẫn và dễ tiếp nhận thông tin

Câu 5:


Câu 1: Trong cuộc sống, mỗi người có một quan điểm sống, một tư tưởng sống khác nhau tạo nên sự đa dạng cho xã hội. Chúng ta ngoài việc bảo vệ quan điểm của mình thì cũng rất cần phải biết tôn trọng sự khác biệt của người khác. Sự khác biệt chính là những cá tính, nét riêng, đặc trưng của một người, một sự vật nào đó mà khi chỉ cần nhắc về đặc điểm đó ta sẽ hình dung ra ngay người, vật ấy. Mỗi người, mỗi vật đều có những nét đặc trưng riêng, sự khác biệt riêng, chúng ta cần biết tôn trọng những đặc điểm đó. Người biết tôn trọng sự khác biệt là người biết lắng nghe những quan điểm, chia sẻ, góc nhìn của người khác một cách trân trọng và tỉ mỉ. Chúng ta có thể đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của người khác nhưng không tìm cách vùi dập hoặc coi thường suy nghĩ của họ. Từ những quan điểm, góc nhìn của người khác, chúng ta biết chọn lọc và rút ra ý nghĩa từ quan điểm đó làm bài học cho chính bản thân mình, việc rút ra bài học từ quan điểm của người khác giúp chúng ta có bài học và hoàn thiện bản thân mình hơn. Bên cạnh đó vẫn còn có nhiều người không biết tôn trọng quan điểm của người khác, sự khác biệt của người khác, luôn cho mình là nhất, quan điểm của mình là đúng và người khác là sai,… chúng ta không nên học theo những người này bởi đây là lối suy nghĩ chưa đúng đắn. Mỗi chúng ta có những sự khác biệt và người khác cũng vậy. Hãy biết tôn trọng người khác, tôn trọng chính mình để xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái, con người hòa đồng với nhau hơn. Sự khác biệt làm đa dạng hóa xã hội, giúp cho cuộc sống con người thêm đa màu sắc hơn, từ đó giúp con người phát triển tốt hơn. Hiểu được tầm quan trọng của sự khác biệt, mỗi người hãy sống và thích nghi với những sự khác biệt mới mẻ để cảm nhận được trọn vẹn cuộc sống nhiều hơn nữa.

Câu 2:

Bài thơ "Nắng mới" của Lưu Trọng Lư là một tác phẩm đặc sắc thuộc phong cách "Thơ mới", nổi bật với cách diễn đạt tinh tế và sâu sắc về tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm đối với người mẹ. Nhà thơ không sử dụng ngôn ngữ rực rỡ, mà thay vào đó, ông chọn lựa từ ngữ tinh tế và hình ảnh hài hòa để truyền đạt tâm tư và tình cảm. Bài thơ diễn đạt cảm xúc bằng cách tận dụng hình ảnh của tiếng gà trưa và nắng mới. Tiếng gà trưa như là một dấu hiệu thời gian, kí ức về quê hương, và nắng mới là nguồn sáng tạo ra những bức tranh ngày xưa. Cảnh quê, bức tranh tuổi thơ, và mặt trời ấm áp đều nằm trong những từ ngữ chân thực và tươi sáng. Nhưng qua đó, nhà thơ cũng truyền đạt một nỗi buồn, một sự lạc lõng trong quá khứ.

Bức tranh về người mẹ, dù được mô tả trong những hình ảnh hồn nhiên nhưng lại chứa đựng một nỗi buồn đặc biệt. Người mẹ trở nên như một biểu tượng của quê hương, những kỷ niệm đẹp nhưng cũng đau lòng. Cảm xúc được truyền tải một cách tinh tế, không cần phải diễn đạt quá rõ ràng. Bài thơ không chỉ là một diễn đạt về quê hương và tình mẹ, mà còn là sự tìm kiếm về bản chất của thời gian và ký ức. Nhà thơ Lưu Trọng Lư lặng lẽ đưa độc giả qua những khung cảnh tĩnh lặng của quê hương, đồng thời cũng làm nổi bật những cảm xúc sâu sắc, tạo nên một tác phẩm thơ mới, tinh tế và đầy ý nghĩa

Mỗi lần nắng mới hắt lên song

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không".

Bài thơ "Nắng mới" của Lưu Trọng Lư không chỉ là một bức tranh hồng ngoại của quê hương, mà còn là một tâm sự tận cùng về một quá khứ ngọt ngào mà đầy nỗi buồn. Tác giả không chọn những từ ngữ hoa mỹ, nhưng những từ láy "xao xác" và "não nùng" lại mang đến cho độc giả những cảm xúc sâu sắc hơn, làm cho nỗi buồn trở nên nặng trĩu và đặc biệt.

Lưu Trọng Lư lẻo lựa từ ngữ giản dị và tự nhiên, nhưng chính sự giản dị ấy lại tạo ra một vẻ đẹp chân thực và chan chứa tâm tư. Cảnh quê hương, tiếng gà trưa, và nắng mới không chỉ là hình ảnh mà tác giả chọn lựa để truyền đạt mà còn là những biểu tượng, những dấu hiệu của quá khứ. Cảm xúc "ùa về" như là một dòng chảy không ngừng, đong đầy ký ức và tình cảm.

Nhà thơ không ngần ngại mở lời về "những ngày không," một thời kỳ trong quá khứ, không chỉ đơn thuần là kỉ niệm về quê hương, mà còn là những khoảnh khắc vô tư và hồn nhiên của tác giả. Có vẻ như những ngày ấy đã nhen nhóm trong lòng nhà thơ một niềm nhớ mẹ khôi nguôi, giữ cho ký ức đó không bao giờ phai nhạt.

Tuy câu chuyện về mẹ chỉ là một phần nhỏ, nhưng lại chứa đựng nhiều tình cảm sâu sắc. Đây không chỉ là niềm nhớ một quê hương xa xôi, mà còn là sự nhớ đến những ngày thơ ấu, những giây phút hạnh phúc và bình yên. Bài thơ chứng minh rằng, đôi khi, sự đơn giản và chân thật lại là chìa khóa mở cánh cửa của ký ức và tình cảm.

"Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội

Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi".

Trong bức tranh thơ "Nắng mới" của Lưu Trọng Lư, hình ảnh của người mẹ như một tia nắng nhỏ, vương vấn qua từng chiếc lá, mảnh ghép của ký ức tưởng như đã phai nhòa. Tác giả lựa chọn góc nhìn nhẹ nhàng và những từ ngữ giản dị nhưng đong đầy nghệ thuật để khắc họa một hình ảnh tình cảm, giữa quá khứ và hiện tại, giữa ký ức và hiện thực.

Người mẹ xuất hiện trong bức tranh với hình ảnh nhẹ nhàng, phơi áo trước giậu, với chiếc áo đỏ như một mảnh ghép tượng trưng cho tình mẫu tử ấm áp. Mặc dù không xuất hiện trực tiếp nhưng người mẹ vẫn là nguồn cảm hứng đầy ấm áp và thơ mộng. Lưu Trọng Lư chọn những từ ngữ tinh tế như "hỉnh ảnh," "đẹp đẽ," "trìu mến thương yêu" để miêu tả hình ảnh ấy, như một cách để làm nổi bật vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc của người mẹ.

Ký ức về người mẹ trở nên đặc biệt quý giá khi người thơ nhớ lại khoảnh khắc nằm trong quãng thời gian thơ ấu. Cảm xúc cháy lên khi tác giả miêu tả về "niềm thương nhớ" dâng trào và mẹ đã không còn, chỉ còn lại "kỷ niệm nhạt nhòa" nhưng vẫn đọng mãi trong tâm hồn "non nớt" và "ngây thơ" của đứa trẻ lên mười. Những từ ngữ như "chút," "đọng lại," "non nớt," "ngây thơ" đều tạo nên một tâm trạng nhẹ nhàng, buồn bã nhưng cũng ấm áp và yên bình.

"Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ

Hãy còn mường tượng lúc vào ra

Nét cười đen nhánh sau tay áo

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa".

Bức tranh tình cảm trong bài thơ "Nắng mới" của Lưu Trọng Lư kết thúc bằng một hình ảnh rất tinh tế và sâu sắc - “nét cười đen nhánh”. Đây không phải là một nụ cười rạng rỡ và lấp lánh, mà lại là một "nét cười", nhẹ nhàng, thanh thoát, như một dải ánh sáng lướt qua, chỉ tồn tại một thoáng, không kịp trở thành một nụ cười đầy đủ. Tác giả sử dụng từ ngữ như “đen nhánh” để mô tả cái cười này, tạo nên hình ảnh màu sắc và độc đáo. Từ "đen nhánh" không chỉ mang ý nghĩa màu sắc mà còn chứa đựng sự kỳ bí và nhẹ nhàng, như chính cái cười ấy vậy. Mặc dù chỉ là một đường cong trên mặt, nhưng nó lại mang đến cho độc giả cảm giác một nụ cười ẩn sau cảm xúc sâu sắc. Tình cảm thương mẹ, niềm nhớ nhà, và những ký ức hồn nhiên của thời thơ ấu hiện diện trong từng góc nhìn của bức tranh tưởng như nhẹ nhàng nhưng ẩn sau đó là sự giàu có và phong phú của tâm hồn.

Hình ảnh “nét cười đen nhánh” không chỉ là điểm kết thúc của bài thơ mà còn là một điểm nhấn cuối cùng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Nó như là một nốt nhạc cuối cùng của bản đàn tình ca, vang vọng mãi, để lại cho độc giả cảm nhận và suy ngẫm về vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc của tình mẫu tử và ký ức thời thơ ấu.

"Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng".

Hình ảnh về người mẹ quá cố trong bài thơ của nhà thơ được mô tả thông qua ba chi tiết sáng tạo: "nắng mới", "áo đỏ", và "nét cười". Mỗi chi tiết này, dù đơn giản, lại chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc, là biểu tượng của tình yêu thương và sự chịu khó của người mẹ Việt Nam. Nắng mới, như một hiện tượng tự nhiên, không chỉ làm tăng thêm vẻ tươi mới cho cảnh đẹp mà còn là biểu tượng của tình mẹ, một tình yêu không ngừng lan tỏa và tươi mới như ánh nắng ban mai. Bức tranh về người mẹ trở nên ấn tượng hơn khi bức màn nắng mới chiếu rọi lên vẻ đẹp tâm hồn của bà. Chiếc "áo đỏ" là một phần của hình ảnh, không chỉ đơn thuần là một chiếc áo màu, mà còn là biểu tượng của lòng dũng cảm và tình yêu thương không biên giới. Màu đỏ trong tác phẩm có thể đại diện cho sự hy sinh, làm mẹ và người phụ nữ Việt Nam với tâm huyết và sự chịu đựng. "Nét cười" của người mẹ, mặc dù chỉ được đề cập một cách nhẹ nhàng, lại mang theo một hồn nhiên, làm tươi sáng không khí trong bài thơ. Đây có thể là biểu tượng của sự lạc quan và vui vẻ, là nét đẹp trong sự chịu đựng và hi sinh.

Nghệ thuật của bài thơ nằm ở giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, cách gieo vần liền và vần chân tạo nên bản nhạc dịu dàng cho những dòng thơ. Ngôn ngữ giản dị, mang đặc điểm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm cho bài thơ trở nên gần gũi, thân thuộc, khiến độc giả cảm thấy như họ đang được dắt vào một không gian quen thuộc và ấm áp. Cuối cùng, tác giả không chỉ miêu tả về người mẹ mà còn làm cho độc giả đắm chìm trong cảm xúc và tư duy của mình. Thông qua việc nhấn mạnh rằng thơ Lưu Trọng Lư không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà là tiếng lòng chân thành đồng điệu với lòng độc giả, tác giả tạo nên một tác phẩm không chỉ đẹp về hình thức mà còn sâu sắc về nghệ thuật và tâm hồn.

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận

Câu2: Những cặp, cụm từ đối lập: tằn tiện-phung phí, hào phóng - keo kiệt, thích ở nhà- bỏ bê gia đình, bay nhảy- không biết hưởng thụ cuộc sống

Câu 3: Tác giả cho rằng:"Đừng bao giờ phán xét người khác một cách dễ dàng" vì mỗi người có cuộc sống riêng biệt. Và chính nhờ sự khác biệt ấy mà cuộc sống trở nên đa dạng hơn. Nếu chỉ đứng từ góc nhìn của chính bản thân mình thì sẽ dễ dàng kết luận, phán xét người khác. Như vậy là sự nhìn nhận phiến diện, không khách quan.

Câu 4: Theo tác giả, điều tồi tệ nhất là khi mỗi bản thân chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó có nghĩa là chúng ta nghe theo và chấp nhận sự điều khiển của người khác nhằm làm người khác hài lòng. Khi sự đánh giá của người khác đã là phiến diện mà chúng ta còn chấp nhận nghe theo để làm hài lòng người khác thì còn là điều tồi tệ hơn

Câu 5: Theo tác giả "Cuộc sống của ta nếu bị chi phối bởi định kiến của bản thân đã là điều rất tệ, nên nếu bị điều khiển bởi định kiến của những người khác hẳn còn tệ hơn nhiều". Đây là một ý kiến đúng đắn về thái độ sống ở đời. Ở đời mỗi người có một cuộc sống và quan điểm sống hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, có những người dễ dàng phán xét người khác chỉ dựa trên quan điểm của bản thân và sự so sánh sự khác biệt với chính mình. Những định kiến mà họ đưa ra cho chúng ta chính là những tấm lưới mà bản thân ta ko nên sa ngã vào. Bởi vì từ trong chính bản thân chúng ta cũng đã có những giới hạn, định kiến mà chúng ta tự đặt ra cho mình rồi. Vậy nên, việc vượt qua được những định kiến của bản thân và người khác để sống cuộc đời do chính mình lựa chọn là điều cần thiết. Khi ấy, mỗi người sẽ nhận thức được cuộc sống còn tươi đẹp biết bao mà trước nay chúng ta vẫn bị gò bó bởi người khác và chính mình. Tóm lại, việc vượt qua được những định kiến rào cản của bản thân và những người khác chính là để sống một cuộc sống tự chủ, tự do.

Câu 1: Xã hội phát triển cao như hiện nay là do những phát minh vĩ đại của những nhà khoa học cũng như những nỗ lực sáng tạo ngày đêm không ngừng nghỉ của con người trong cuộc sống. Chính vì vậy, chúng ta có thể khẳng định: sáng tạo có vai trò rất lớn đối với con người và nhân loại. Sáng tạo là phát minh ra những điều, những thứ mới lạ giúp cho cuộc sống trở nên thuận tiện, dễ dàng, hiện đại, tiện nghi hơn để thay thế cho những thứ có sẵn. Bên cạnh đó, sáng tạo còn là sự sắp xếp công việc của mình một cách hợp lí, logic để thuận tiện hơn. Sự sáng tạo vô cùng quan trọng và cần thiết trong cuộc sống này nhất là thời kì phát triển hiện nay. Người có tính năng động và sáng tạo thường không bằng lòng với cái có sẵn, không bắt chước hoàn toàn cách làm đã có. Họ luôn say mê, tìm tòi, phát hiện, linh hoạt xử lí các tình huống, tìm ra cách làm mới, sản phẩm mới, hiệu quả cao. Chính bởi thế, họ luôn là người tiên phong trong công việc, tiên phong cho sự cải cách của xã hội. Mỗi người là một cá thể riêng biệt không giống ai, tất cả đều có thể tạo nên những ý tưởng đột phá, những sáng tạo có ích trong xã hội. Cuộc sống không có sự sáng tạo là một cuộc sống nghèo nàn bởi cuộc sống đó chỉ biết phụ thuộc vào những điều có sẵn. Con người đặc biệt là các bạn trẻ hiện nay không những cần sáng tạo trong cuộc sống mà cần sáng tạo trong cả việc học tập để tìm ra phương pháp học tập tối ưu nhất để tiếp thu, chuyển thể kiến thức thành bài học cho bản thân mình. Năng động và sáng tạo không phải lúc nào cũng sẵn có mà cần phải rèn luyện và bồi dưỡng thường xuyên bằng cách không ngừng đặt câu hỏi và lí giải những câu hỏi, thắc mắc của bản thân về con người và cuộc sống sao cho đáp án đó tối ưu nhất. Mỗi người một lần đực sống, hãy sáng tạo để thấy cuộc sống thú vị hơn cũng như để cho bản thân tiến bộ vượt bậc hơn.

Câu 2:

Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.

      Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng.  Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.

Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm.

     Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má".  Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
      Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
      Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô.  Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó.  Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
     Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười.  Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải.  Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thuỷ chung sâu sắc, tấm lòng yêu thương, vị tha.

     Nguyễn Ngọc Tư  đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.

     Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.

Câu 1: Kiểu văn bản của ngữ liệu trên là văn bản thông tin

Câu 2: Một số hình ảnh, chi tiết cho thấy cách giao thương, mua bán thú vị trên chợ nổi là:

+ Người buôn bán nhóm họp bằng xuồng, người đi mua bằng xuồng, ghe.

+ Rao hàng bằng cây bẹo dựng đứng trên xuồng nhìn như cột ăng-ten di động.

+ Chế ra cách ''bẹo'' hàng băng âm thanh lạ tai của những chiếc kèn: có kèn bấm băng tay, có kèn đạp băng chân,..

+ Những tiếng rao: Ai ăn chè đạu đen, nước dừa đường cát hôn,….

Câu 5: Sau khi đọc văn bản trên, em thấy rằng chợ nổi đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân miền Tây. Bởi đấy là một trong những hoạt động giao thương buôn bán quan trọng, giúp người dân cải thiện đời sống và là một nét đẹp văn hóa truyền thống của nhân dân nơi đây.

Câu 3: Tác dụng của việc sử dụng tên các địa danh trong văn bản nhằm: Giúp thông tin trở nên chi tiết, xác thực, phong phú.

Câu 4: Tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản trên là: Hình ảnh minh họa giúp người đọc quan sát và liên tưởng sâu sắc hơn, rõ ràng hơn về hình ảnh, hoạt động giao thương và những yếu tố cụ thể của chợ nổi.

(a) \(5CaC_2O_4 + 2KMnO_4 + 8H_2SO_4 \rightarrow 5CaSO_4 + 2K_2SO_4 + 2MnSO_4 + 10CO_2 + 8H_2O\)
(b) \(n(KMnO_4) = 2.05 \times 10^{-3} \times 4.88 \times 10^{-4} = 1.00 \times 10^{-6} \text{mol}\)
 \(n(CaC_2O_4) = 5 \times n(KMnO_4) = 5 \times 1.00 \times 10^{-6} = 5.00 \times 10^{-6} \text{mol}\)
 \(m(Ca^{2+}) = 5.00 \times 10^{-6} \times 40.08 = 2.00 \times 10^{-4} \text{g} = 0.20 \text{mg}\)
 Nồng độ \(Ca^{2+}\) = \(\frac{0.20 \text{mg}}{1 \text{mL}} = 0.20 \text{mg/mL}\)
【Giải thích】: 1.

Để tính biến thiên enthalpy (ΔrH⁰₂₉₈) của quá trình hòa tan calcium chloride (CaCl₂(s)) trong nước, ta sử dụng định luật Hess.  Định luật Hess nói rằng biến thiên enthalpy của một phản ứng không phụ thuộc vào đường đi phản ứng, chỉ phụ thuộc vào trạng thái đầu và trạng thái cuối.

Phương trình phản ứng:

CaCl₂(s) → Ca²⁺(aq) + 2Cl⁻(aq)

Ta cần biết enthalpy tạo thành chuẩn (ΔfH⁰₂₉₈) của các chất tham gia và sản phẩm.  Bạn đã cung cấp ΔfH⁰₂₉₈ của CaCl₂(s) là -795.0 kJ/mol và ΔfH⁰₂₉₈ của Ca²⁺(aq) + 2Cl⁻(aq) là -542.83 kJ/mol.  Lưu ý rằng giá trị -542.83 kJ/mol là tổng enthalpy tạo thành chuẩn của ion Ca²⁺(aq) và hai ion Cl⁻(aq) trong dung dịch.

Áp dụng định luật Hess:

ΔrH⁰₂₉₈ = Σ [ΔfH⁰₂₉₈(sản phẩm)] - Σ [ΔfH⁰₂₉₈(chất phản ứng)]

ΔrH⁰₂₉₈ = [-542.83 kJ/mol] - [-795.0 kJ/mol]

ΔrH⁰₂₉₈ = 252.17 kJ/mol

Vậy, biến thiên enthalpy của quá trình hòa tan calcium chloride trong nước là **252.17 kJ/mol**.  Giá trị dương cho thấy quá trình này thu nhiệt (hấp thụ nhiệt từ môi trường).  Điều này có nghĩa là cần cung cấp năng lượng để phá vỡ mạng lưới tinh thể CaCl₂ và hydrat hóa các ion trong dung dịch.

a.  Fe + HNO₃ → Fe(NO₃)₃ + NO + H₂O

•Cân bằng:

3Fe + 10HNO₃ → 3Fe(NO₃)₃ + NO + 5H₂O

•Chất oxi hóa: HNO₃ (Nitơ trong HNO₃ giảm số oxi hóa từ +5 xuống +2)
•Chất khử: Fe (Sắt tăng số oxi hóa từ 0 lên +3)
•Quá trình oxi hóa: Fe → Fe³⁺ + 3e⁻
•Quá trình khử: NO₃⁻ + 4H⁺ + 3e⁻ → NO + 2H₂O


b. KMnO₄ + FeSO₄ + H₂SO₄ → Fe₂(SO₄)₃ + MnSO₄ + K₂SO₄ + H₂O

•Cân bằng:

2KMnO₄ + 10FeSO₄ + 8H₂SO₄ → 5Fe₂(SO₄)₃ + 2MnSO₄ + K₂SO₄ + 8H₂O

•Chất oxi hóa: KMnO₄ (Mangan trong KMnO₄ giảm số oxi hóa từ +7 xuống +2)
•Chất khử:FeSO₄ (Sắt tăng số oxi hóa từ +2 lên +3)
•Quá trình oxi hóa:Fe²⁺ → Fe³⁺ + e⁻
•Quá trình khử: MnO₄⁻ + 8H⁺ + 5e⁻ → Mn²⁺ + 4H₂O
Quá trình khử:MnO₄⁻ + 8H⁺ + 5e⁻ → Mn²⁺ + 4H₂O