

Phùng Thị Thu Hường
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1 Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là trữ tình, thể hiện tình cảm sâu sắc và nỗi nhớ của con dành cho mẹ. Câu 2 Những từ ngữ, hình ảnh thể hiện năm khốn khó: +Đồng sau lụt + Bờ đê sụt lở +Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn +Anh em con chịu đói suốt ngày tròn + Ngồi co ro bậu cửa Câu 3 Biện pháp tu từ trong hai dòng thơ: Hoán dụ: "Tiếng lòng con chẳng thể nào vang vọng" để chỉ sự xa cách giữa con và mẹ. Tác dụng: Nhấn mạnh nỗi đau và sự bất lực của con khi không thể thể hiện tình cảm với mẹ. Câu 4 Nội dung dòng thơ "Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn" thể hiện: + Hình ảnh mẹ lam lũ, vất vả +Sự hy sinh của mẹ trong thời khắc khó khăn Câu 5 Thông điệp tâm đắc nhất: Tình mẫu tử: Tình yêu thương và sự hy sinh của mẹ là vô bờ bến. Lý do: Đoạn trích thể hiện rõ ràng nỗi nhớ và lòng biết ơn của con dành cho mẹ, đồng thời nhấn mạnh sự hy sinh và tình yêu thương của mẹ.
Câu 1 Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm Câu2 Hình ảnh đời mẹ được so sánh với những sự vật, hiện tượng: bến vắng bên sông, nơi đón nhận những con thuyền đánh gió và cây tự quên mình quên mình trong quả. Những so sánh này thể hiện tình cảm yêu thương và tình yêu thương của con dành cho mẹ Câu 3 Biện pháp tu từ so sánh : quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây Tác dụng: biện pháp tu từ so sánh nhấn mạnh và làm nổi bật hình ảnh sinh động, thể hiện lòng biết ơn và tôn kính đối với mẹ , giống như việc nhớ ơn cây đã cho quả chín Câu 4 Chúng ta hiểu về hai câu thơ trên là : " con muốn có lời gì đằm thắm Ru tuổi già mẹ tháng năm nay" Diễn tả mong muốn của người con muốn gửi lời ru êm ái và yêu thương đến tuổi già của mẹ trong suốt những tháng năm qua Câu 5 Bài học rút ra từ văn bản: +Lòng biết ơn: Con cái cần biết ơn và thể hiện tình cảm với cha mẹ. +Tình mẫu tử: Tình yêu thương của mẹ là vô bờ bến, con cần trân trọng và đáp lại. +Sự hy sinh: Mẹ luôn hy sinh thầm lặng cho con, con cần hiểu và đáp lại tình cảm đó
Câu 1:
Văn bản "Bởi Vì Thương" của Nguyễn Ngọc Tư thuộc thể loại truyện ngắn.
Câu 2:
Người kể chuyện trong văn bản là người kể chuyện hạn tri, thường là nhân vật San hoặc người dẫn chuyện gần gũi với San.
Câu 3:
Thành phần chêm xen trong đoạn văn là: "Ừ, trở thành đào hát, không cần phải đóng vai chính, nối tiếng làm gì, hát phụ cũng được, đóng vai ác, vai hầu gái, cung nữ, bà già cũng được..."
Tác dụng của thành phần chêm xen này là:
- Bày tỏ suy nghĩ và ước mơ của San một cách trực tiếp và chân thực.
- Tạo ra một giọng điệu thân mật và gần gũi với người đọc.
- Giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật San và suy nghĩ của cô.
Câu 4:
Điểm nhìn trần thuật trong đoạn văn là điểm nhìn từ bên trong nhân vật San.
Tác dụng của điểm nhìn trần thuật này là:
- Tạo ra sự gần gũi và thân mật với người đọc.
- Giúp người đọc hiểu rõ hơn về suy nghĩ và cảm xúc của San.
- Tạo ra một không khí riêng tư và chân thực trong câu chuyện.
Câu 5:
Văn bản này để lại trong em những cảm nhận và suy nghĩ về:
- Tình cảm yêu thương và sự hy sinh của người mẹ dành cho con cái.
- Ước mơ và khát vọng của San trở thành đào hát và cuộc sống của cô.
- Sự nghèo khổ và khó khăn trong cuộc sống của San và gia đình cô.
- Giá trị của tình yêu thương và sự quan tâm trong cuộc sống.
Câu 1
Văn bản trên thuộc kiểu: văn bản thông tin
Câu 2
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản : thuyết minh
Câu 3
Nhan đề “Phát hiện 4 hành tinh trong hệ sao láng giềng của Trái Đất”:Là một nhan đề rõ ràng, thể hiện trực tiếp đối tượng thông tin trong văn bản (4 hành tinh mới trong một hệ sao gần Trái đất) và khái quát được nội dung cốt lõi của bài viết.Có tính hấp dẫn, khơi gợi sự tò mò của người đọc khi sử dụng động từ “phát hiện” ở đầu câu và dùng cụm từ “hệ sao láng giềng” thúc đẩy người đọc quan tâm, tìm hiểu về những phát hiện mới mẻ này.Nhan đề ngắn gọn, súc tích, truyền tải chính xác nội dung cốt lõi, đồng thời khơi gợi trí tò mò của người đọc về một khám phá khoa học mới mẻ, hấp dẫn.
Câu 4
- Phương tiện phi ngôn ngữ: Hình ảnh mô phỏng sao Barnard và các hành tinh của nó.
- Tác dụng: Giúp người đọc hình dung được rõ ràng, chính xác hơn về hệ sao Barnard và những hành tinh mới được phát hiện, đồng thời làm tăng tính trực quan, hấp dẫn cho bài viết.
Câu 5
Văn bản có tính chính xác và khách quan cao, vì thông tin được trích dẫn từ các nguồn uy tín như chuyên san "The Astrophysical Journal Letters", Đài ABC News và Đại học Chicago. Các báo cáo khoa học, tên công trình nghiên cứu, và các cơ quan, cá nhân tham gia đều được đề cập rõ ràng.
Câu 1
Con người chúng ta chỉ sống một lần duy nhất trên đời, hãy là những đóa hoa nở rộ, cống hiến những điều tốt đẹp nhất cho xã hội bằng sự sáng tạo của mình. Sáng tạo là phát minh ra những thứ mới lạ giúp cho cuộc sống chúng ta trở nên thuận tiện, dễ dàng, hiện đại, tiện nghi hơn để thay thế cho những thứ có sẵn. Sự sáng tạo vô cùng quan trọng và cần thiết trong thời kì phát triển của xã hội hiện nay. Người có sự sáng tạo là những người luôn cố gắng tìm tòi, học hỏi, phát minh ra những cái hay nhằm mục đích để cuộc sống luôn dễ dàng. Họ luôn muốn tìm ra cái mới để cải thiện những cái cũ, thậm chí là đi trước xu hướng của thời đại.Như giáo sư người Anh Sarah Gilbert trước mối hiểm họa của covid 19, bà đã nghiên cứu và chế tạo thành công vaccine AstraZeneca. Dù đã 59 tuổi nhưng bà luôn là người chăm chỉ làm việc, nghiên cứu từ 4 giờ sáng đến khi tối muộn. Nhờ vậy mà vaccine AstraZeneca được ra đời, hàng triệu người trên thế giới được cứu sống. Qua đó ta cũng thấy quá trình sáng tạo chưa bao giờ là đơn giản, chúng ta sẽ gặp muôn vàn khó khăn, phải đánh đổi nhiều thứ, là thời gian, công sức, tiền bạc, thế nhưng sau tất cả, thành quả của những sáng tạo ấy lại thật ngọt ngào. Sự sáng tạo giúp con người làm được những điều tưởng như không thể, nó giúp con người vượt qua những khó khăn và rút ngắn được thời gian khi làm việc. Bên cạnh đó, sự sáng tạo khiến cho cuộc sống của con người trở nên tiện ích hơn, không chỉ giải quyết được những nhu cầu cần thiết mà còn khiến cho cuộc sống con người thêm thú vị hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn không ít người có tư duy, lối sống lạc hậu không chịu tiếp thu, sáng tạo để tiến bộ mà cứ ôm khư khư cách nghĩ của mình, những người này đáng bị xã hội phê phán, chỉ trích. Chúng ta được lựa chọn cách sống của mình để phát triển bản thân cũng như giúp ích cho xã hội, hãy sáng tạo trong công việc và cuộc sống để đạt hiệu quả cao nhất cũng như phát triển bản thân mình để trở thành phiên bản tốt nhất.
Câu 2
Chiến tranh nổ ra! Bao gia đình phải chia ly, bấy nhiêu bóng dáng hào kiệt đã ngã xuống, máu hòa với nỗi hận chôn sâu dưới làn mưa bom đạn. Vậy mà, mặc cho chiến tranh có tàn phá nặng nề đến mức nào, thì hình ảnh Phi và ông Sáu Đèo trong tác phẩm “Biển người mênh mông” của Nguyễn Ngọc Tư vẫn đậm sâu, đẹp đẽ một cách lạ thường. Đặc biệt, 2 nhân vật này là đại diện cho con người Nam Bộ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả, để rồi người ta thêm vững lòng tin vào một thứ tình cảm thiêng liêng, bất diệt.
Chuyện kể về ông Sáu Đèo được về quê sau chín năm xa cách dài đằng đẵng. Ông là một người chiến sĩ nông dân vùng Nam Bộ. Với lòng yêu nước mãnh liệt cùng sự căm ghét quân giặc sâu sắc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến. Ngày ông đi, ông đã cố gắng gạt đi sự quyến luyến, tình yêu thương gia đình. Để lại sau lưng là ánh mắt non nớt cùng người vợ tảo tần để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Quyết hy sinh đến tận hơi thở cuối cùng để bảo vệ từng mảnh đất, ngọn cỏ của dân tộc. Có thể nói, ông chính là hình ảnh đại diện cho lòng yêu nước của người nông dân Nam Bộ chân chất, mộc mạc.
Phi sinh ra đã không có ba, năm tuổi rưỡi, má Phi cũng theo chồng ra chợ sống. Phi ở với bà ngoại, chiu chít quanh quẩn bên chân bà như gà mẹ gà con. Thấy Phi suốt ngày thui thủi một mình, ngoại biểu đi hàng xóm chơi, Phi lắc đầu, "Đi đâu ai người ta cũng bảo giống ông Hiểu nào, trưởng đồn Vàm Mấm nào á. Con với ổng nước lã, người dưng mà, ngoại?" Ngoại không nói gì, lặng lẽ ngồi đương thúng, dường như trong mình có chỗ nào đó đau lắm, nhói lắm
Khi Phi lên mười, mười lăm tuổi đã biết rất nhiều chuyện. Thì ra, đã không còn cách nào khác, má mới bỏ Phi lại. Sau giải phóng, ba Phi về, xa nhau biền biệt chín năm trời, về nhà thấy vợ mình có đứa con trai chưa đầy sáu tuổi, ông chết lặng. Đây là kết quả cưỡng bức của tên đồn trưởng Rạch Vàm Nấm với mẹ của Phi. Ngoại Phi bảo, "Tụi bây còn thương thì mai mốt ra tỉnh nhận công tác, rủ nhau mà đi, để thằng Phi lại cho má". Má cũng hay về thăm Phi, thường là về một mình. Tất bật, vội vã, không làm gì cũng vội vã. Lần nào cũng hối hả kéo Phi vào lòng hỏi còn tiền xài không, lúc rày học hành thế nào, có tiếp ngoại vót nan không, sao mà ốm nhom vậy? Rồi từ từ má chỉ hỏi anh chuyện tiền xài thôi.
Hết cấp hai, Phi lên thị xã mướn nhà trọ học, một năm mấy lần lại nhờ má đi họp phụ huynh. Ba Phi thì hội họp, công tác liên miên, Phi ít gặp. Ông thay đổi nhiều, diện mạo, tác phong nhưng gặp Phi, cái nhìn vẫn như xưa, lạnh lẽo, chua chát, đắng caỵ, dứt khoát không nhìn con như vậy. Ông hay chê Phi với má, "Cái thằng, lừ đừ lừ đừ không biết giống ai" . Hết lớp mười, Phi vừa học vừa tìm việc làm thêm. Má anh rầy, "Bộ má nuôi không nổi sao?" Phi cười, "Má còn cho mấy đứa em, phải lo cho tụi nó học cao hơn nữa. Tự mình con sống cũng được, má à. Rồi Phi thôi học đi theo đoàn hát, má anh giận tím ruột bầm gan, "Ai đời ba mầy làm tới chức phó chủ tịch, không lẽ không lo cho mầy một chỗ làm tử tế, sao lại vác cây đờn đi hò hát lông bông. Làm vậy khác nào làm ổng mất mặt". Chỉ ngoại Phi là không rầy, ngoại anh hỏi, "Bộ làm nghề đó vui lắm hả con? Thoải mái chớ gì? Phải rồi, hồi xưa má con đẻ rớt con trên bờ mẫu, mở mắt ra đã thấy mênh mông trời đất rồi, bây giờ bị bó buộc con đâu có chịu". Phi chỉ cười cười mà không nói. Nhờ vậy, mà người ở xóm lao động nghèo nầy biết thằng Phi "nghệ sỹ" vẫn còn ở đây, trong căn nhà cửa trước lúc nào cũng khép im ỉm. Ở trong cái tổ bê bối của mình, Phi ngủ vùi đến trưa hôm sau. Ngoại biểu anh cưới vợ hoài, nhưng Phi nghĩ mãi, có ai chịu đựng được anh chồng lang thang say xỉn như mình, hồi còn là một hòn máu thoi thót anh đã làm khổ bao nhiêu người rồi, bây giờ lấy vợ không phải lại làm khổ thêm một người nữa sao?
Rồi ngoại Phi nằm xuống dưới ba tấc đất, đôi bông tai bằng cẩm thạch ngoại để dành cho cháu dâu vẫn còn nằm im trong hộc tủ thờ. Còn một mình, anh đâm ra lôi thôi, ba mươi ba tuổi rồi mà sống lôi thôi, nghèo hoài. Ngó cảnh nhà, Phi tự hỏi, mình sống bê bối từ hồi nào vậy cà. Từ hồi nào thì phong trần, bụi bặm, khắc khổ, ăn bận lôi thôi, quần Jean bạc lổ chổ, lai rách te tua, áo phông dài quá mông, râu ria rậm rạp, móng tay dài, tóc dài. Từ hồi nào muốn soi kiếng phải lấy tay vẹt mớ râu tóc ra như người ta vẹt bụi ô rô. Không biết, có ai la rầy, có ai để ý đâu mà biết. Má anh lâu lâu lại hỏi anh đủ tiền xài không, bà có nhìn anh nhưng không quan tâm lắm chuyện ăn mặc, tóc tai. Ngoài ngoại ra, chỉ có ông Sáu Đèo nhắc anh chuyện đó. Cuộc đời của ông Sáu Đèo sau khi người vợ bỏ đi, không con cái, chỉ làm bạn với con chim bìm bịp, lang thang bán vé số nay đây mai đó ở tuổi xế chiều, cô đơn. Nỗi nhớ và tiếng kêu thắt lòng của con chim bìm bịp nhắc về ông Sáu Đèo đang tiếp tục lưu lạc trên chặng đường nào. Nỗi cô đơn của Phi giữa biển người mênh mông.
Trời trở chướng, ông Sáu than đau nhức mình. Phi qua nhà cạo gió cho ông. Lần theo những chiếc xương gồ ra trên thân mình nhỏ thó, ốm teo, Phi buột miệng "Bác Sáu ốm quá". Ông già Sáu cười. Ông biểu, "Sống một mình thì buồn lắm, chú em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất, nếu chưa tính chuyện đó được thì nuôi chó, mèo, chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cục rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu. Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Cuộc sống nghèo vậy mà vui lắm. Phi hỏi, "Vậy bác Sáu gái đâu rồi ?" Ông già rên khẽ, gương mặt ràn rụa nước mắt, Phi giật mình, hỏi quýnh quáng. Ông già Sáu mếu máo chỉ về phía tim, ông đã tìm người vợ gần bốn mươi năm, dời nhà cả thảy ba mươi ba bận, bỏ cả sông nước vốn gắn bó như máu thịt, lên bờ tìm kiếm để nói lời xin lỗi với vợ; cử chỉ “lấy tay quệt nước mắt” và câu hỏi day dứt trong ông: “Cái con bìm bịp quỷ nầy nó cũng bỏ qua mấy lần nhưng ngủ một đêm trên đọt dừa nó lại quay về. Sao cổ không quay lại?”,ông bảo đã ở đây một năm hai tháng mười chín ngày rồi, ngõ nào cũng đi hẻm nào cũng tới mà người thương đâu chưa thấy, những hoài niệm về niềm hạnh phúc với người vợ, “cuộc sống nghèo vậy mà vui lám”, buồn “tìm hoài không gặp” đi liền với nỗi lo “sợ mắt mình dở rồi nên nhìn không ra cổ”, “tới chết không biết có gặp được không”. “Từ đấy, ông già Sáu Đèo chưa một lần trở lại”. Ông vẫn đang mải miết đi hết những đường ngang ngõ dọc để tìm người thương, hay ông chân đã mỏi, gối đã chồn, đã dừng lại ở đâu đó trên hành trình cuộc đời mà vẫn chưa thôi khắc khoải. Trên hành trình tìm kiếm khát khao hạnh phúc đó, con người Nam Bộ trong truyện Biển người mênh mông cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó sâu quê hương xứ sở, tình cảm thủy chung , sâu sắc
Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa nhân vật con người Nam Bộ trong trang văn với tình huống truyện tâm trạng, cốt truyện đơn giản, điểm nhìn di chuyển vào các nhân vật; ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ, giàu chất thơ cùng với giọng điệu buồn thương, ngậm ngùi để lại trong lòng người đọc nhìu cảm xúc khó tả. Người đọc cảm nhận về những mảnh đời bé nhỏ, bất hạnh, trôi nổi, lưu lạc, những khát khao kiếm tìm hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Hành trình kiếm tìm tình thân, hạnh phúc ấy cũng là hành trình tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn, hành trình của trái tim. Truyện khiến cho mỗi người đọc không nguôi về “nỗi người” trong trang văn của tác giả.
Truyện khơi gợi sự đồng cảm của người đọc, cho độc giả cảm nhận được những giá trị quý giá của tình thân, tình người, của hạnh phúc. Truyện cũng cảnh báo về những hời hợt, thờ ơ của mỗi người có thể đang góp phần làm nên cái “Biển người mênh mông” trong cuộc sống. Qua đó, tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc về là một người chiến sĩ giàu trách nhiệm, kỷ luật và nặng lòng với quê hương, đất nước. Và rồi, đến cả khi đã gấp lại trang sách cũ, người ta vẫn canh cánh mãi những nỗi niềm rất lạ, rất riêng.
Câu 1
Kiểu văn bản là văn bản thông tin
Câu 2
Các hình ảnh , chi tiết
+Rao hàng bằng "cây bẹo" , cắm dựng đứng trên ghe xuồng
+ "bẹo" hàng bằng các âm thanh lạ tai từ những chiếc kèn
+ các cô gái bán đồ ăn thức uống thì "bẹo hàng" bằng lời rao
Câu 3.
Tác dụng của việc sử dụng tên các địa danh trong văn bản trên : làm cho văn bản trở nên sinh động, có tính minh bạch , xác đáng và phong phú.Tên các địa danh này còn giúp người đọc nhận diện được sự đa dạng và đặc trưng của từng khu chợ nổi, qua đó phản ánh nền văn hóa phong phú của vùng đất này.
Câu 4.
Tác dụng của phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ trong văn bản trên : thu hút khách một cách trực quan và sinh động, giúp dễ dàng nhận diện sản phẩm cần mua từ xa mà không cần phải nói nhiều.Những hình ảnh và âm thanh này tạo nên một không khí sôi động, đặc sắc, riêng biệt, phản ánh đặc trưng văn hóa của chợ nổi miền Tây.
Câu 5
Chợ Nổi là một nét văn hóa đặc sắc vùng sông nước vô cùng độc đáo đối với người dân miền Tây cũng như khách du lịch trên toàn thế giới . Đối với người miền Tây sông nước,chợ Nổi như một bức tranh cuộc sống sinh động , nhiều sắc màu với các ghe xuồng bán những hàng háo rực rỡ tạo nên một nét văn hóa đặc sắc của người dân vùng đồng bằng châu thổ phía Nam đất nước
Câu 1
Trong cuộc sống hiện đại, việc tôn trọng sự khác biệt của người khác là vô cùng quan trọng. Mỗi người là một cá thể độc đáo với những quan điểm, giá trị và trải nghiệm riêng. Sự khác biệt này tạo nên sự đa dạng và phong phú cho xã hội. Khi chúng ta tôn trọng sự khác biệt, chúng ta tạo ra một môi trường hòa bình, cởi mở và thân thiện, nơi mọi người cảm thấy được chấp nhận và tôn trọng. Điều này cũng giúp chúng ta mở rộng tầm nhìn, học hỏi những điều mới mẻ và phát triển bản thân. Thay vì phán xét và kỳ thị, hãy cố gắng thấu hiểu và cảm thông với những người xung quanh. Sự tôn trọng sự khác biệt không chỉ là một đức tính tốt đẹp mà còn là nền tảng cho một xã hội văn minh và tiến bộ.
Câu 2
Lưu Trọng Lư là một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Xuất thân trong một gia đình quan lại có truyền thống Nho học ở tỉnh Quảng Bình. Một trong số tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu cảu ông có lẽ phải kể đến bài thơ Nắng mới. Được vinh dự xuất hiện trong tuyển tập “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. Đây là một bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ của Lưu Trọng Lư: sầu và mộng.
Bài thơ có nhan đề là “Nắng mới” và mạch cảm xúc của bài thơ cũng được khơi nguồn từ hình ảnh trung tâm ấy.
Hình ảnh nắng mới thường gợi ra cảm giác ấm áp, vui tươi, nhẹ nhõm, nhưng “nắng mới” trong bài thơ lại gợi ra những kí ức thật buồn. Bởi vì mỗi lần “nắng mới” lên, nhân vật trữ tình lại nhớ đến người mẹ đã khuất của mình.
Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ đều tập trung vào hai hình ảnh: nắng mới và mẹ. Ở khổ 1, hình ảnh nắng mới ở một buổi trưa trong hiện tại nhắc nhở nhà thơ nhớ đến những lần “nắng mới hắt bên song” trong quá khứ. Ở khổ 2, trong kí ức của “tôi” năm mười tuổi, mỗi lần “nắng mới reo ngoài nội”, mẹ lại đem áo đỏ ra phơi ngoài dậu. Ở khổ 3, hình ảnh “me tôi” vẫn còn vô cùng sống động, tưởng như vẫn đang còn nhìn thấy “nét cười đen nhánh sau tay áo” lấp lánh tỏa nắng của mẹ “trong ánh trưa hè trước dậu phơi”.
Ngay từ khổ đầu tiên, nhà thơ đã giãi bày “Mỗi lần nắng mới hắt bên song”, lòng lại “rượi buồn theo thời dĩ vãng”. Nghĩa là bài thơ chỉ bộc lộ xúc cảm của một lần sống với kí ức về mẹ, nhưng lại gợi ra vô vàn những lần khác của hồi ức, chỉ cần nhìn thấy “nắng mới”, chỉ cần nghe “tiếng gà trưa gáy não nùng” là lại ”chập chờn sống lại những ngày không”, lại nhớ về những ngày mẹ còn sống.
Hình ảnh mẹ chưa trực tiếp xuất hiện ở khổ thơ đầu. Khổ thơ này mới tập trung miêu tả bối cảnh không gian và thời gian tác động vào tâm hồn nhà thơ, để những hồi ức về mẹ chuẩn bị sống dậy. Không gian mở ra với một khung cửa đầy nắng “nắng mới hắt bên song”. Nắng mới nhưng lại không gợi cảm giác ấm áp, tươi vui bởi vì ngay từ đầu, ánh nắng ấy đã không “sáng”, không “chiếu”, không “rực” mà chỉ “hắt” bên song cửa. Từ “hắt” gợi một cảm giác hiu hắt, héo tàn. Thời gian là vào một buổi trưa hè. Và cùng với không gian đầy nắng ấy là âm vang của “tiếng gà trưa gáy não nùng”. Những từ láy “xao xác”, “não nùng” khiến cho cảm xúc thơ chùng xuống, nặng trĩu bởi nỗi lòng thương nhớ, bởi nỗi buồn hoài niệm.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ giới thiệu rất rõ kí ức của mình: “Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời- Lúc người còn sống tôi lên mười”. Lời giới thiệu rõ ràng ấy vừa chính thức mở ra khoảng thời gian trong quá khứ với những hồi tưởng về người mẹ đã khuất, vừa dễ dàng giúp người đọc thâm nhập vào mạch cảm xúc của bài thơ. Trong khổ thơ này, hình ảnh người mẹ xuất hiện nổi bật cùng với hình ảnh “nắng mới reo ngoài nội”, với chiếc áo đỏ “đưa trước dậu phơi”. Màu vàng của nắng và màu đỏ của áo khiến hình ảnh người mẹ thêm phần rực rỡ. Mà nắng mới trong ngày xưa có mẹ cũng thật khác với nắng mới bây giờ mồ côi. Nắng “reo ngoài nội” chứ không “hắt bên song”. Ánh nắng ấy reo vui ngoài nội cỏ chứ không hắt hiu bên song cửa như nắng bây giờ. Phải chăng sự khác biệt của cảm xúc thơ đã làm thay đổi cả tính chất vốn có của sự vật tự nhiên, khiến “nắng mới” cũng thật đầy tâm trạng mà tỏa sáng, tỏa nhiệt?
Đến khổ thơ thứ ba, nhân vật trữ tình lại trực tiếp xuất hiện để bộc lộ cảm xúc về mẹ: “Hình dáng me tôi chửa xóa mờ- Vẫn còn mường tượng lúc vào ra”. Nhiều năm đã trôi qua, đứa trẻ lên mười năm nào nay đã lớn, mẹ cũng đã khuất từ lâu, nhưng hình ảnh mẹ vẫn còn vô cùng sống động trong kí ức của người con, vẫn như là mẹ còn sống, vẫn vào ra nói cười. Và trong kí ức ấy, hình ảnh đẹp nhất về mẹ đã được lưu giữ lại: “Nét cười đen nhánh sau tay áo- Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”. Nét cười được miêu tả bằng thủ pháp ẩn dụ hiện lên thật đẹp, thật gợi cảm. Đó là nụ cười tỏa nắng của những người phụ nữ có hàm răng đen nhánh, hàm răng đẹp trong quan niệm văn hóa cổ truyền của người Việt. Nụ cười ấy càng sáng hơn trong ánh trưa hè lấp lóa. Trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, Hoàng Cầm cũng từng miêu tả một nét cười như thế “Những cô hàng xén răng đen- Cười như mùa thu tỏa nắng”. Kí ức của người con vĩnh viễn lưu lại nụ cười của mẹ. Để mỗi lần “nắng mới” xuất hiện, nụ cười ấy lại tỏa sáng trong lòng con.
Đúng như tứ thơ mà ngay từ ban đầu nhan đề đã gợi ra, hình ảnh nắng mới xuyên suốt bài thơ, dẫn mạch cảm xúc đi từ hiện tại về quá khứ rồi quay trở lại hiện tại với lời khẳng định nỗi nhớ dành cho mẹ. Với lời khẳng định ấy, hình ảnh người mẹ sẽ sống mãi trong trái tim nhân vật trữ tình, dù đó là cậu bé Lư năm mười tuổi hay là nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Bài thơ được làm theo thể thơ bảy chữ, gieo vần chân. Ở khổ một các tiếng “song”- “không” bắt vần với nhau; ở khổ hai là các tiếng “thời”- “mười”-“phơi”; khổ ba không có tiếng bắt vần nhưng đảm bảo thanh bằng ở chữ cuối của các câu 1,2,4 khiến cho nhạc điệu thơ vẫn êm đềm, dịu dàng. Sự liền mạch của vần điệu đã giúp nhà thơ diễn tả được dòng hồi ức về mẹ thật tự nhiên.
Hình ảnh thơ không nhiều, chủ yếu tập trung vào hai hình ảnh là nắng mới và mẹ, được triển khai nhất quán qua ba khổ thơ và được miêu tả thật gợi cảm, sinh động. Sự gắn liền giữa “nắng mới” và “mẹ” đã giúp cho nhà thơ dễ dàng dẫn dắt cảm xúc thơ đi về giữa hiện tại và quá khứ, bởi mẹ tuy không còn nữa nhưng nắng mới thì hè nào cũng lên, và cũng gợi nhắc về mẹ.
Bài thơ không sử dụng nhiều biện pháp tu từ, đáng chú ý nhất là biện pháp ẩn dụ trong hình ảnh “nét cười đen nhánh sau tay áo”. Ẩn dụ đã biến nét cười từ chỗ chỉ có hình dáng trở thành có màu sắc, mà lại là một màu sắc thật đặc biệt: màu đen nhánh. Màu sắc ấy gợi ra một nét đẹp rất truyền thống của người phụ nữ xưa: nét đẹp của hàm răng đen, nét đẹp từng là một trong số “mười thương”: “Một thương tóc bỏ đuôi gà- Hai thương ăn nói mặn mà có duyên- Ba thương má lúm đồng tiền-Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua”. Trong kí ức của Lư, nụ cười tỏa nắng ấy là một vẻ đẹp vĩnh viễn của mẹ, dù thời gian có trôi qua bao lâu đi chăng nữa thì mẹ vẫn mãi mãi đẹp trong mắt con.
Trong phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư nổi lên với một tiếng thơ sầu và mộng. Sầu thì là ngôi nhà chung của người nghệ sĩ lúc bấy giờ. Còn mộng thì là “căn bệnh chung” của nhiều thi sĩ. Huy Cận là người “đi lượm lặt từng chút buồn rơi rớt trong vũ trụ để rồi dệt nên những vần thơ ão não”, Xuân Diệu mới đầu vui bao nhiêu, say đắm bao nhiêu thì sau lại bơ vơ, lạnh lẽo bấy nhiêu. Thế Lữ mơ thoát lên tiên, mộng làm con hổ trong vườn bách thú. Chế Lan Viên ôm một “tinh cầu giá lạnh” để thở than một mình… Thế nhưng cái lối sầu và mộng của Lư vẫn có nét riêng khác biệt. Trong cái sầu của Lư không có cái sầu của vũ trụ, cái sầu của thế gian rộng lớn mà chỉ có cái sầu của một cá nhân, gắn với một kí ức cụ thể. Như trong bài “Nắng mới” này, cái sầu ấy gắn liền với nỗi niềm tiếc nuối, nhớ thương người mẹ đã khuất của chính nhà thơ. Trong cái mộng của Lư lại cứ có thêm cái gì đó thật huyền ảo, lãng mạn. Đó là chất huyền ảo trong “Tiếng thu”, trong “tiếng trăng mờ thổn thức”, trong “tiếng thu kêu xào xạc”. Cứ có một cái gì đó vừa hư vừa thực hiện ra trong thế giới nghệ thuật của Lư. Trong bài “Nắng mới” này, cái hư thực ấy nằm ngay trong câu cuối của khổ thơ đầu “Chập chờn sống lại những ngày không”. Rồi với hình ảnh ở kết bài- hình ảnh nét cười đen nhánh của người mẹ- người đọc đột nhiên có cảm giác mơ hồ: không biết mình còn đang ở trong kí ức ngày xưa của Lư hay đã quay về thực tại?
Mà bản thân hình ảnh “nắng mới” cũng được Lưu Trọng Lư miêu tả thật đặc biệt. Nắng trong Thơ mới xuất hiện ở nhiều bài thơ. Đó là cái “nắng chang chang” trong “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, là “Lá nõn nhành non ai tráng bạc” trong thơ Nguyễn Bính, … Riêng Hàn Mặc Tử còn có “Đây thôn Vĩ Dạ” với một màu nắng mới thật đẹp: “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”. Với thi nhân nào, hình như nắng mới cũng giữ được tính chất vốn có của nó: ấm áp, hồng hào, tinh khôi, mới mẻ. Chỉ có đến thơ Lưu Trọng Lư, thứ nắng ấy mới trở nên nhàu nhĩ, héo úa bởi nỗi buồn không còn mẹ và kí ức của “những ngày không”. Một sự vật của tự nhiên bên ngoài, khi đi vào thế giới thệ thuật của thơ có thể trở nên đầy khác biệt, mang cảm nhận chủ quan của người viết. Đó chính là cái mà giới phê bình vẫn gọi là một dạng “vân chữ” của nhà thơ.
Lưu Trọng Lư nằm trong số những thi nhân vinh dự được điểm danh trong tập “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. Thật ra thì chỉ cần một vài tác phẩm như “Tiếng thu”, “Nắng mới”, Lư đã có thể khẳng định địa vị nhà thơ của mình một cách chắc chắn. Riêng với bài thơ “Nắng mới” này, cõi thơ sầu mộng của Lư đến được gần với tâm tư của người đọc nhất, vì nó chạm đến một nỗi niềm cảm xúc mà ai cũng có: tình mẫu tử. Lời thơ không chút cầu kì, hoa mĩ mà vẫn làm xao động bao tâm tư. Gấp trang thơ lại rồi, người đọc vẫn thấy bận bịu vô cùng vì nỗi lòng mà người thi sĩ trải ra trên trang giấy.
Câu 1
Phương thức biểu đạt chính : nghị luận
Câu 2
2 cặp từ, cặp cụm từ đối lập được sử dụng trong đoạn (1): tần tiện - phung phí , hào phóng - keo kiệt
Câu 3
Tác giả cho rằng đừng bao giờ phán xét người khác một cách dễ dàng vì:
+Mỗi người có một hoàn cảnh, góc nhìn và trải nghiệm riêng. Việc phán xét người khác dựa trên những định kiến cá nhân có thể dẫn đến những đánh giá sai lệch và thiếu công bằng.
+Lời phán xét có thể gây tổn thương và ảnh hưởng tiêu cực đến người khác. Thay vì phán xét, chúng ta nên cố gắng thấu hiểu và cảm thông với người khác.
+Việc phán xét người khác cũng phản ánh sự thiếu sót của chính bản thân người phán xét. Thay vì tập trung vào người khác, chúng ta nên tập trung vào việc hoàn thiện bản thân.
Câu 4
Quan điểm này có nghĩa là:Định kiến là những suy nghĩ, đánh giá tiêu cực và phiến diện về một người hoặc một nhóm người. Những định kiến này thường dựa trên những thông tin không đầy đủ hoặc sai lệch .Việc chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến có nghĩa là chúng ta để cho những định kiến chi phối suy nghĩ và hành động của mình. Điều này dẫn đến việc chúng ta đánh giá và đối xử với người khác một cách bất công và phiến diện. Tác giả cho rằng việc để định kiến chi phối còn tệ hơn cả việc tự mình có những định kiến. Vì khi đó, chúng ta không còn là chính mình mà trở thành nô lệ của những định kiến của người khác.
Câu 5
Thông điệp mà tôi rút ra được từ văn bản trên là:
+Hãy cẩn trọng với những định kiến và phán xét của bản thân. Thay vì vội vàng đánh giá người khác, hãy cố gắng thấu hiểu và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan.
+Hãy mở lòng và chấp nhận sự khác biệt. Mỗi người là một cá thể độc đáo với những giá trị và quan điểm riêng.
+Hãy tập trung vào việc hoàn thiện bản thân thay vì phán xét người khác. Việc phán xét người khác thường phản ánh sự thiếu sót của chính bản thân mình.
+ Hãy lắng nghe tiếng nói từ trái tim và sống theo những giá trị mà mình tin tưởng. Đừng để những định kiến của người khác chi phối cuộc sống của bạn.
Hy vọng những phân tích và trả lời trên đây hữu ích cho bạn!
Câu 1
Đoạn thơ trên là một bức tranh buồn về sự thay đổi của làng quê Việt Nam trong quá trình đô thị hóa. Hình ảnh "những nỗi buồn ruộng rẫy" được mang lên phố gợi lên sự mất mát, tiếc nuối về một cuộc sống nông thôn thanh bình, giản dị. Sự biến mất của "những lũy tre ngày xưa" và hình ảnh "cánh đồng làng giờ nhà cửa chen chúc mọc" thể hiện sự thay đổi nhanh chóng của cảnh quan, sự thu hẹp của không gian xanh.Đặc biệt, hình ảnh "thiếu nữ bây giờ không còn hát dân ca" là một biểu tượng cho sự mai một của văn hóa truyền thống. Sự vất vả của người nông dân "đất không đủ cho sức trai cày ruộng" và "mồ hôi chẳng hóa thành bát cơm no" cho thấy sự khó khăn trong cuộc sống mưu sinh. Câu thơ "những đứa bạn đã rời làng kiếm sống" phản ánh thực tế về sự di cư của người dân từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm cơ hội.Đoạn thơ sử dụng nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, gợi hình, gợi cảm, kết hợp với giọng điệu buồn man mác, thể hiện sự xót xa, tiếc nuối của tác giả trước sự thay đổi của quê hương.
Câu 2
Trong thời đại công nghệ số phát triển như vũ bão, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Từ Facebook, Instagram, Twitter đến TikTok, YouTube, chúng ta dễ dàng kết nối, chia sẻ và cập nhật thông tin chỉ với vài thao tác đơn giản. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận, mạng xã hội cũng mang đến không ít thách thức và tác động tiêu cực đến cuộc sống của con người.
Trước hết, mạng xã hội là một công cụ kết nối tuyệt vời. Nó giúp chúng ta duy trì mối quan hệ với bạn bè, người thân, đồng nghiệp dù ở bất kỳ đâu trên thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng chia sẻ những khoảnh khắc đáng nhớ, những suy nghĩ, cảm xúc của mình với những người quan tâm. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, mạng xã hội càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong việc kết nối cộng đồng, giúp mọi người vượt qua giai đoạn khó khăn. Thứ hai, mạng xã hội là một nguồn thông tin phong phú và đa dạng. Chúng ta có thể cập nhật tin tức, kiến thức, xu hướng mới nhất trong mọi lĩnh vực chỉ với vài cú nhấp chuột. Mạng xã hội cũng là một kênh học tập hiệu quả, giúp chúng ta tiếp cận với các khóa học trực tuyến, các bài giảng, video hướng dẫn từ các chuyên gia trên toàn thế giới.Thứ ba, mạng xã hội là một công cụ giải trí hữu ích. Chúng ta có thể xem phim, nghe nhạc, chơi game, đọc truyện, xem các video hài hước để giải tỏa căng thẳng, mệt mỏi sau những giờ làm việc, học tập căng thẳng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đó, mạng xã hội cũng mang đến không ít thách thức và tác động tiêu cực. Một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất là sự lan truyền của tin giả, tin sai lệch. Những thông tin này có thể gây hoang mang, lo lắng cho người đọc, thậm chí dẫn đến những hành động sai trái.Ngoài ra, mạng xã hội cũng có thể gây nghiện, khiến chúng ta dành quá nhiều thời gian cho thế giới ảo mà quên đi cuộc sống thực tại. Điều này có thể dẫn đến những vấn đề về sức khỏe tinh thần như trầm cảm, lo âu, cô đơn.
Hơn nữa, mạng xã hội cũng là một môi trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ về an ninh mạng. Chúng ta có thể bị đánh cắp thông tin cá nhân, bị lừa đảo, bị bắt nạt trên mạng.Làm thế nào để sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả?Để sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả, chúng ta cần có ý thức và trách nhiệm. Hãy chọn lọc thông tin một cách cẩn thận, chỉ chia sẻ những thông tin chính xác và có nguồn gốc rõ ràng. Hãy dành thời gian cho cuộc sống thực tại, đừng để mạng xã hội chi phối cuộc sống của bạn. Hãy bảo vệ thông tin cá nhân của mình, tránh chia sẻ những thông tin nhạy cảm trên mạng.
Tóm lại, mạng xã hội là một con dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại nhiều lợi ích cho cuộc sống của chúng ta, nhưng cũng có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực. Điều quan trọng là chúng ta phải biết sử dụng mạng xã hội một cách thông minh và có trách nhiệm để tận dụng tối đa những lợi ích mà nó mang lại, đồng thời giảm thiểu những rủi ro và tác hại.
Câu 1
Thể thơ : thơ tự do
Câu 2
Trong văn bản trên hạnh phúc được miêu tả qua những tính từ : xanh , thơm, dịu dàng , vô tư
Câu 3
Chúng ta hiểu nội dung của đoạn thơ sau : hạnh phúc thể hiện rất nhiều hình thức. Hạnh phúc đôi khi được thể hiện dưới những điều bình dị , an yên nhất , không ồn ào , khoa trương
Câu 4
BPTT: So sánh : "Như sông"
Tác dụng :
+ Giúp cho bài thơ trở nên mượt mà và hấp dẫn hơn
+ Nêu ra được giá trị hiện thực của hạnh phúc : Hạnh phúc luôn hiện diện ở bất cứ đâu. Là một thứ gì đó rất gần gũi với mỗi con người. Nó có thể vô tư mà xuất hiện trước mắt chúng ta, không cần biết là đầy hay vơi, chúng đến với mỗi người một cách tự nhiên nhất.
Câu 5
Quan niệm về hạnh phúc của tác giả được thể hiện trong đoạn trích : Hạnh phúc không đến từ những điều xa xôi mà đến từ chính những điều nhỏ bé, những điều đơn giản xung quanh cuộc sống của chúng ta. Hạnh phúc sẽ đến với những ai cảm nhận được nó trng cuộc sống rộng lớn này.