

Đỗ Như Yến
Giới thiệu về bản thân



































Nguyễn Khuyến đã có một thời gian dài gắn bó với chốn quan trường, phục vụ cho dân cho nước. Song ông sớm từ bỏ chốn danh lợi thị phi do bất mãn với chính quyền để về quê ở ẩn. Với tư cách là một người trong cuộc ông thấu hiểu với nỗi vất vả, khốn khó của người dân dưới ách áp bức của thực dân phong kiến. Bài thơ Chốn quê được sáng tác với cảm hứng như thế. Toàn bài thơ là nỗi lòng của ông về cuộc sống khốn khổ trăm đường của nhân dân, ông thương cảm, xót xa cho những cảnh bất hạnh quần quật quanh năm mà đói nghèo vẫn đeo bám.
Thật ra đề tài về cuộc sống khốn khó của người nông dân trước cách mạng tháng tám không hiếm. Phải nói rất nhiều, những tác phẩm truyện ngắn hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Phạm Duy Tốn, những bài thơ của nhiều tác giả khác cùng thời với Nguyễn Khuyến đều đã phản ánh rất nhiều. Song đến với bài thơ Chốn quê của Nguyễn Khuyến chúng ta thấy một màu sắc rất riêng. Ông khai thác trên nền đề tài vốn đã cũ để thổi vào đó luồng gió mới. Cũng là cảnh khổ, cái đói nghèo, cái sự khốn cùng của nhân dân nhưng lại được Nguyễn Khuyến diễn tả một cách nhẹ nhàng, thấm thía. Với những thi liệu rất gần gũi, quen thuộc bài thơ đã mở ra một không khí của chốn làng quê, tuy đói nghèo nhưng vẫn không túng quẫn. Đó là cái nhìn trân trọng của nhà thơ với số phận của những người nông dân trước cách mạng:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Những câu thơ như là ông đang nói hộ nỗi niềm của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Họ như đang ngồi lại với nhau để bộc bạch sự khốn khó của mình. Đó là những cảnh nghèo vất vả trong nhiều năm, bán mặt cho đất bán lưng cho trời vẫn chẳng ăn thua nghĩa là công cốc, chả bỏ ra được gì. Bởi đâu do như vậy? Chẳng phải do người lao động không cố gắng mà vì rất nhiều lý do chủ quan và khách quan khác. Thứ nhất là do mùa màng thất bát, thời tiết không ủng hộ. Thứ hai là do thuế sưu quá nặng, thuế để nộp quan tây, thuế để nộp địa chủ. Thứ ba là công thuê mướn người làm nửa công cho đứa ở, nửa công thuê bò làm ruộng… thành thử trừ tất cả đi người nông dân chẳng còn lại là bao. Cả một mùa vất vả một nắng hai sương ngoài ruộng đồng, thứ họ nhận lại được chẳng đáng với công sức đã bỏ ra. Phép đối và liệt kê đã được sử dụng rất chuẩn chỉnh thể hiện những khó khăn chồng chất khó khăn của người lao động. Đồng thời cũng thể hiện thái độ trân trọng, cảm thông của nhà thơ với những lo toan của người nông dân.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
Bốn câu thơ cuối là tiếng thở dài của người lao động. Vì cuộc sống vất vả, khốn khó nên họ đã tằn tiện tiết kiệm từng đồng hào. Bữa ăn đạm bạc chẳng có gì “sớm trưa dưa muối” để cho qua bữa, những thú vui giản dị như trầu chè cũng chẳng dám mua. Mọi thứ đã tiết kiệm hết mức có thể ấy thế mà đời sống vẫn chẳng thay đổi, chẳng khấm khá hơn được.
Câu thơ cuối khép lại bài thơ bằng một câu hỏi tu từ “Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” đầy tâm trạng của người lao động. Bao giờ cho hết đường lo đây, nếu xã hội vẫn bất công, chế độ thực dân phong kiến vẫn đàn áp như bây giờ thì đời sống của người nông dân sẽ chẳng bao giờ tốt hơn được.
Bài thơ miêu tả cảnh sống khốn khó của người nông dân bằng ngòi bút chân thực. Nhà thơ như sống cùng với họ, thấu hiểu tâm trạng và nỗi niềm của họ, nói thay nỗi lòng của họ bằng một giọng thơ ngậm ngùi, chua xót. Qua đó chúng ta cũng hiểu thêm về con người Nguyễn Khuyến, một nhà thơ của làng quê Việt Nam, luôn sống và thấu hiểu người dân bằng tất cả tấm lòng của mình.
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của truyện là tự sự, kết hợp với miêu tả. Truyện kể lại những sự kiện trong cuộc sống của nhân vật "tôi" qua một câu chuyện mang đậm cảm xúc cá nhân và chi tiết miêu tả.
Câu 2.
Ngôi kể trong truyện là ngôi thứ nhất (nhân vật "tôi" kể lại câu chuyện của chính mình).
Câu 3.
Chủ đề của văn bản là nỗi vất vả và tình yêu thương của gia đình trong việc chăm sóc và lo lắng cho con cái, đặc biệt là sự quan tâm của mẹ đối với sự học hành của con.
Câu 4.
- Từ ngữ địa phương: "Rau om" (ở miền Nam, rau om là món ăn nấu với các loại rau như ngò gai, ngò om,...)
- Từ ngữ toàn dân tương ứng: "Rau nấu" hoặc "rau thơm" (tùy theo từng vùng miền).
Câu 5.
Chi tiết này thể hiện sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc của nhân vật "tôi" đối với mẹ. Dù không biết cách an ủi mẹ, nhưng "tôi" vẫn cố gắng nuốt hết tô canh bí đỏ để làm mẹ vui, cho thấy "tôi" rất yêu mẹ và không muốn mẹ buồn. Đây là hành động thể hiện sự hy sinh thầm lặng và tình yêu vô điều kiện mà nhân vật "tôi" dành cho mẹ.
Câu 6.
Tình cảm gia đình đối với mỗi con người là một nguồn động viên vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Gia đình là nơi ta tìm thấy sự an ủi, yêu thương và sự quan tâm sâu sắc nhất. Những người thân trong gia đình luôn là những người đồng hành, sẻ chia mọi niềm vui nỗi buồn, giúp ta vững vàng trước mọi khó khăn. Đặc biệt là tình yêu thương của mẹ, sự hy sinh và quan tâm của ba mẹ dành cho con cái luôn là nền tảng vững chắc để con cái trưởng thành và phát triển. Mỗi gia đình đều có những cách thể hiện tình yêu thương riêng biệt, nhưng tất cả đều hướng tới sự phát triển toàn diện của mỗi thành viên. Chính vì thế, tình cảm gia đình luôn là giá trị vô giá, là chỗ dựa tinh thần không thể thiếu đối với mỗi người.
Trong xã hội hiện đại, giới trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều bạn trẻ sống tích cực, năng động, vẫn còn một bộ phận không nhỏ đang thể hiện lối sống vô trách nhiệm – một vấn đề đáng lo ngại và cần được nhìn nhận nghiêm túc.
Lối sống vô trách nhiệm là khi con người sống buông thả, không quan tâm đến hậu quả hành động của mình đối với bản thân và người khác. Ở giới trẻ, biểu hiện của lối sống này rất đa dạng: học hành chểnh mảng, thiếu ý thức trong công việc, sống ích kỷ, đổ lỗi cho hoàn cảnh, phớt lờ lời khuyên của người lớn và trốn tránh trách nhiệm khi gây ra sai lầm. Đặc biệt, trên mạng xã hội, nhiều bạn trẻ sẵn sàng phát ngôn tùy tiện, thiếu suy nghĩ, gây tổn thương cho người khác mà không chịu trách nhiệm với lời nói của mình.
Nguyên nhân của lối sống vô trách nhiệm xuất phát từ nhiều phía. Trước hết là do sự thiếu định hướng từ gia đình và nhà trường, khi cha mẹ nuông chiều con cái quá mức hoặc chưa dạy con về tinh thần trách nhiệm. Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ khiến nhiều bạn trẻ sống ảo, xa rời thực tế, thiếu kỹ năng sống và kỹ năng kiểm soát bản thân. Một phần khác là do tâm lý thích hưởng thụ, ngại khó, ngại khổ, muốn thành công nhanh mà không chịu nỗ lực.
Lối sống vô trách nhiệm không chỉ làm giới trẻ thụt lùi, đánh mất cơ hội phát triển bản thân mà còn ảnh hưởng đến xã hội. Một thế hệ thiếu trách nhiệm sẽ khó xây dựng được một cộng đồng văn minh, tiến bộ. Đồng thời, sự vô trách nhiệm trong hành động và lời nói còn có thể gây hậu quả nghiêm trọng như tai nạn, hiểu lầm, mâu thuẫn, thậm chí là hậu quả về pháp lý.
Để khắc phục tình trạng này, cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường và xã hội. Bản thân mỗi bạn trẻ cần rèn luyện tinh thần trách nhiệm qua những việc nhỏ nhất: đúng giờ, giữ lời hứa, nhận lỗi khi làm sai và học cách đối diện với hậu quả. Trách nhiệm không phải là điều gì quá to tát, mà chính là sự trưởng thành trong cách sống và hành xử hàng ngày.
Tóm lại, lối sống vô trách nhiệm là vấn đề đáng lo ngại, cần được quan tâm và khắc phục. Mỗi người trẻ cần ý thức rằng: sống có trách nhiệm không chỉ là bổn phận, mà còn là cách thể hiện giá trị của bản thân với gia đình và xã hội.
Câu 1. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, người kể giấu mình, kể về nhân vật Trạng Quỳnh và lão trọc phú.
Câu 2. Quỳnh thuộc kiểu nhân vật thông minh, trào phúng, thường dùng trí tuệ để chế giễu, dạy cho kẻ dốt nát, háo danh một bài học.
Câu 3. Nghĩa hàm ẩn trong lời nói của Quỳnh là: Lão trọc phú là người chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, không có tri thức, nên bụng không chứa chữ nghĩa mà chỉ chứa đồ ăn.
Câu 4. Truyện gây cười bằng sự đối lập, mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, dùng lối nói mỉa mai, châm biếm hài hước, và tình huống bất ngờ.
Câu 5. Tác giả sáng tác truyện nhằm phê phán thói háo danh, dốt mà hay sĩ diện, đồng thời ca ngợi sự thông minh, hóm hỉnh của Trạng Quỳnh.
Câu 6.
Câu chuyện giúp em nhận ra rằng không nên khoe khoang những gì mình không có, nhất là trong lĩnh vực tri thức. Con người cần học thật, hiểu thật chứ không nên giả vờ, sĩ diện hão. Đồng thời, em cũng học được cách ứng xử thông minh, hài hước để dạy người khác một bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Pierre Benoit từng nói: “Khoan dung là đức tính đem lợi cho cả ta và người khác.” Câu nói giản dị nhưng sâu sắc ấy khiến ta suy ngẫm về một đức tính quý giá trong cuộc sống - đó là sự khoan dung. Khoan dung không chỉ là sự rộng lượng, tha thứ mà còn là cầu nối giúp con người sống hòa hợp, tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn. Qua câu nói, ta hiểu rằng khi ta khoan dung, không chỉ người được khoan dung được lợi mà chính ta cũng nhận được lợi ích tinh thần sâu sắc.
Trước hết, khoan dung giúp ta có được sự bình an trong tâm hồn. Trong cuộc sống, ai cũng từng phạm sai lầm, có lúc khiến ta tổn thương hoặc phật ý. Nếu ta cứ mãi giữ lòng hận thù, bực bội, điều đó chỉ làm tổn thương chính bản thân ta trước. Ngược lại, khi biết khoan dung, tha thứ cho lỗi lầm của người khác, ta như được buông bỏ những gánh nặng phiền muộn, cảm thấy nhẹ nhõm và bình yên hơn. Đó là lợi ích đầu tiên mà đức tính khoan dung mang lại cho chính ta. Sống khoan dung giúp ta mở rộng trái tim, biết cảm thông và tha thứ, qua đó tâm hồn cũng trở nên thanh thản, vui vẻ hơn.
Tiếp theo, khoan dung góp phần xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, bạn bè và xã hội. Khi ta rộng lượng, bao dung với người khác, mọi người sẽ cảm thấy được tôn trọng và yêu thương. Từ đó, tình cảm được củng cố, sự gắn bó thêm bền chặt. Ngược lại, nếu con người luôn nhỏ nhen, ích kỷ, không chịu tha thứ thì các mối quan hệ dễ rạn nứt, dẫn đến tranh cãi, xung đột. Chính vì vậy, khoan dung không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả cộng đồng, giúp xã hội trở nên hòa thuận, văn minh hơn.
Thêm vào đó, khoan dung còn là một phẩm chất giúp con người trưởng thành và phát triển nhân cách. Người biết khoan dung thường là người có trí tuệ, biết nhìn nhận vấn đề một cách công bằng, khách quan và có lòng vị tha. Họ không chỉ vì lợi ích cá nhân mà biết nghĩ đến người khác, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ. Đức tính khoan dung dạy ta bài học về sự bao dung và tình thương yêu, đồng thời giúp ta nhận ra rằng không ai hoàn hảo, ai cũng có lúc vấp ngã cần được tha thứ.
Tuy nhiên, khoan dung không có nghĩa là buông lỏng, dung túng cho cái sai hay bỏ qua mọi lỗi lầm. Khoan dung là sự tha thứ có chừng mực, là khả năng cảm thông và chấp nhận khác biệt, đồng thời biết bảo vệ cái đúng, cái tốt. Một xã hội nếu mọi người đều biết khoan dung sẽ giảm thiểu được nhiều mâu thuẫn và bạo lực, từ đó phát triển bền vững.
Tóm lại, câu nói của Pierre Benoit đã khẳng định giá trị to lớn của đức tính khoan dung trong đời sống. Khoan dung không chỉ mang lại lợi ích cho người được tha thứ mà còn làm cho chính ta được nhẹ nhõm, thanh thản. Đó là một đức tính quý báu mà mỗi người nên rèn luyện để làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp và ý nghĩa hơn. Vì vậy, trong mỗi hoàn cảnh, chúng ta hãy biết khoan dung với bản thân và với mọi người xung quanh, để hòa bình và hạnh phúc luôn ngự trị trong cuộc sống.
Câu 1.
Vấn đề trọng tâm là nỗi nhớ trong bài thơ Tây Tiến và cách nỗi nhớ được thể hiện sáng tạo, độc đáo trong tác phẩm.
Câu 2.
Luận điểm đoạn (1): Tên bài thơ Tây Tiến được rút gọn để tạo sự khái quát, kiêu hùng, thể hiện quy mô và tính chất của cả một thế giới nghệ thuật nguyên vẹn.
Câu 3.
a. Thành phần biệt lập: dường như
b. Kiểu câu: câu kể diễn tả cảm xúc, mang tính biểu cảm.
Câu 4.
- Luận điểm: Nỗi nhớ trong Tây Tiến được biểu đạt bằng nhiều chữ lạ và ám ảnh.
- Lí lẽ: Chữ “nhớ chơi vơi” vừa thể hiện trạng thái nhớ vừa thể hiện cảnh vật.
- Bằng chứng: Trích dẫn câu thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” và phân tích ý nghĩa chữ “nhớ ơi” trong bài thơ.
Câu 5.
Tác giả thể hiện tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ nỗi nhớ trong thơ Tây Tiến, coi đó là nguồn cảm hứng sâu sắc, tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật đặc biệt và lưu giữ ký ức lịch sử.
Câu 6. (Ví dụ đoạn văn)
Nỗi nhớ trong câu thơ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi lên cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Nỗi nhớ không chỉ là kỷ niệm mà còn là một cảm xúc dâng trào, tha thiết, đầy chất thơ và âm vang sâu lắng trong lòng người đọc. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp mộng mơ nhưng cũng rất chân thực, sống động của ký ức về Tây Tiến.