

Nguyễn Việt Hoàng
Giới thiệu về bản thân



































Trong cuộc sống, con người luôn gặp phải những lúc tranh cãi, mâu thuẫn và sai lầm. Khi đó, khoan dung – khả năng tha thứ, bao dung và nhẫn nhịn với những thiếu sót của người khác – trở thành một đức tính vô cùng quý giá. Câu nói của Pierre Bonoit: “Khoan dung là đức tính đem lợi cho cả ta và người khác” đã khái quát chân thực và sâu sắc về ý nghĩa to lớn của đức tính này.
Trước hết, khoan dung giúp con người sống nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Khi ta biết bao dung, bỏ qua những lỗi nhỏ của người khác, không cố chấp đòi hỏi sự hoàn hảo, thì tâm hồn ta sẽ không bị gánh nặng của giận dữ, thù hằn đeo bám. Ta có thể sống hòa hợp, bình yên trong mối quan hệ với người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Ngược lại, nếu lúc nào cũng giữ tâm lý khắt khe, xét nét người khác, ta sẽ luôn sống trong căng thẳng, mệt mỏi và cô đơn. Như vậy, khoan dung là “lợi” đầu tiên mà ta tự đem lại cho chính mình.
Không những thế, khoan dung còn đem lại lợi ích to lớn cho người khác. Khi ta tha thứ và cảm thông với những lỗi lầm hay sai sót của họ, ta đã tạo ra cơ hội để họ sửa chữa, hoàn thiện bản thân. Khoan dung giúp xây dựng mối quan hệ bền vững, góp phần tạo nên một môi trường sống thân thiện, nhân ái. Người được khoan dung sẽ cảm nhận được sự tôn trọng, sẻ chia và sẽ có động lực sống tốt hơn, làm nhiều điều thiện hơn. Đó là lý do khoan dung không chỉ là một hành động cá nhân mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Hơn nữa, khoan dung thể hiện sự trưởng thành và bản lĩnh của con người. Không phải ai cũng dễ dàng tha thứ và rộng lượng với người khác khi bị tổn thương. Người khoan dung biết vượt lên trên cái tôi cá nhân, biết đặt mình vào vị trí của người khác để thấu hiểu và cảm thông. Nhờ đó, khoan dung còn giúp ta học được cách kiềm chế cảm xúc tiêu cực, biết nhẫn nhịn và làm chủ bản thân. Đây là phẩm chất cần thiết để mỗi người phát triển toàn diện về nhân cách và trí tuệ.
Trong cuộc sống hiện đại đầy áp lực và cạnh tranh, khoan dung càng trở nên cần thiết. Khi xã hội ngày càng đa dạng, nhiều quan điểm, lối sống khác nhau cùng tồn tại, nếu thiếu khoan dung sẽ dễ dẫn đến chia rẽ, mâu thuẫn và thù hận. Nhưng nếu mỗi người biết khoan dung, biết tôn trọng và hiểu người khác, xã hội sẽ phát triển hài hòa, văn minh và tốt đẹp hơn.
Tuy nhiên, khoan dung không đồng nghĩa với việc bao che cho cái sai hay dung túng cho những hành vi xấu. Khoan dung phải đi cùng với sự công bằng, lý trí và trách nhiệm. Ta có thể tha thứ những lỗi lầm nhỏ nhặt, nhưng vẫn cần lên tiếng khi gặp phải điều sai trái nghiêm trọng để bảo vệ lẽ phải và công lý.
Tóm lại, khoan dung là một đức tính quý báu mang lại lợi ích cho cả bản thân ta và mọi người xung quanh. Nó giúp ta sống nhẹ nhàng, hạnh phúc hơn và góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, thân thiện. Mỗi người hãy cố gắng rèn luyện đức tính khoan dung để cuộc sống trở nên ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
Câu 1. Vấn đề trọng tâm mà văn bản nêu lên là gì?
Văn bản phân tích nỗi nhớ đặc biệt trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, tập trung vào việc làm rõ ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của nỗi nhớ trong tác phẩm.
Câu 2. Xác định luận điểm của đoạn (1).
Đoạn (1) luận về sự lựa chọn tiêu đề “Tây Tiến” thay vì “Nhớ Tây Tiến”, qua đó khẳng định bài thơ là một thế giới nghệ thuật nguyên vẹn, bao quát và kiêu hùng, thể hiện cả thiên nhiên, con người và cuộc hành trình.
Câu 3.
a. Thành phần biệt lập trong câu:
“mà” trong cụm “mà đồng hiện trong một chữ chơi vơi ấy” là thành phần biệt lập.
b. Xét về mục đích nói, câu văn in đậm thuộc kiểu câu:
Câu kể gián tiếp biểu cảm (thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, thán phục).
Câu 4. Chỉ ra mối quan hệ giữa luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (2).
- Luận điểm: Nỗi nhớ trong Tây Tiến được biểu đạt bằng ngôn ngữ độc đáo, ám ảnh và sâu sắc.
- Lí lẽ: Nỗi nhớ không chỉ là cảm xúc mà còn là trạng thái chông chênh, đan xen giữa chủ thể và cảnh vật.
- Bằng chứng: Phân tích cụ thể các từ ngữ “nhớ chơi vơi”, “nhớ ơi”, “nhớ ôi” và cách diễn đạt cảm xúc trong thơ.
Câu 5. Nhận xét về tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện trong văn bản.
Tác giả thể hiện thái độ trân trọng, yêu mến sâu sắc đối với bài thơ Tây Tiến, đặc biệt là nỗi nhớ vừa bi thương vừa lãng mạn. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ trước sức sống bền bỉ và giá trị nghệ thuật của nỗi nhớ trong thi phẩm.
Câu 6. Viết một đoạn văn ngắn (5 – 7 dòng) về vẻ đẹp của nỗi nhớ trong một câu thơ/đoạn thơ:
Trong câu thơ “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” của Quang Dũng, nỗi nhớ được thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế qua từ “chơi vơi” – vừa là cảm giác chông chênh, bâng khuâng, vừa là sự hòa quyện giữa tâm trạng người lính và không gian thiên nhiên hùng vĩ. Nỗi nhớ ấy không chỉ là ký ức mà còn là cảm xúc sống động, đầy sức nặng, khiến người đọc cảm nhận được sự day dứt, vừa bi tráng vừa lãng mạn của cuộc hành trình Tây Tiến.
Bài thơ “Chốn quê” của Nguyễn Khuyến được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước lâm vào cảnh khó khăn, người nông dân vất vả với cuộc sống cơ cực nhưng vẫn phải đối mặt với những thử thách, gánh nặng khó giải quyết. Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện một cách chân thực cuộc sống nghèo khổ, vất vả của người nông dân, đồng thời thể hiện sự trăn trở, bức xúc trước những khó khăn không có hồi kết.
Bài thơ gồm tám câu ngắn gọn, mộc mạc nhưng giàu ý nghĩa. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên hình ảnh người nông dân “mấy năm làm ruộng vẫn chân thua”, lời than thở ấy như nói lên sự bế tắc, mỏi mệt của người lao động nghèo. Họ cày bừa, làm việc miệt mài trên đồng ruộng nhưng thu hoạch thì “chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”, tức là mùa màng thất bát, không đủ nuôi sống bản thân, đời sống ngày càng khó khăn. Những câu thơ này vừa diễn tả thực trạng thất thu của vụ mùa, vừa cho thấy sự bất lực, nỗi thất vọng không nguôi của người nông dân.
Bên cạnh đó, những gánh nặng từ thuế khóa và nợ nần cũng được tác giả nhắc đến một cách rõ ràng: “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ”. Người nông dân không chỉ bị áp lực bởi thiên tai, mất mùa mà còn bị gánh nặng nợ nần, thuế khóa đè nặng, khiến cuộc sống càng thêm khó khăn. Đặc biệt, câu “Nửa công đứa ở, nửa thuê bò” cho thấy nông dân phải làm việc cực nhọc, còn một nửa sản phẩm thu được phải chia cho chủ đất, hoặc phải thuê mướn các vật dụng lao động như con bò kéo cày. Điều đó cho thấy sự bất công trong xã hội lúc bấy giờ, người lao động không được hưởng trọn thành quả lao động của mình.
Nguyễn Khuyến còn miêu tả cuộc sống tiết kiệm đến mức tối giản của người nông dân: “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, chợ búa trầu chè chẳng dám mua”. Câu thơ thể hiện rõ cảnh đời khốn khó, phải ăn uống tạm bợ, không đủ tiền để mua những thứ như trầu, chè - những thứ tưởng chừng như nhỏ bé nhưng lại là biểu tượng của sự đầy đủ, no đủ trong đời sống người Việt. Từ đó, tác giả như muốn nhấn mạnh sự nghèo đói cùng cực, thiếu thốn đủ bề của người dân quê lúc bấy giờ.
Điệp ngữ “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, bao giờ cho biết khỏi đường lo?” vừa là lời tự vấn vừa như lời than thở, bộc lộ nỗi niềm trăn trở, bất lực của người nông dân dù đã cần cù, tiết kiệm đến mức tối đa nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo khó, vẫn bị cảnh “lo toan” đeo bám. Hai câu cuối như một câu hỏi tu từ nhấn mạnh vào sự bế tắc, không lối thoát, đồng thời cũng là lời kêu gọi sự thay đổi, sự quan tâm của xã hội đối với những người lao động nghèo.
Bài thơ “Chốn quê” không chỉ là tiếng nói của người nông dân khốn khổ mà còn phản ánh một cách chân thực xã hội phong kiến với những bất công, áp bức mà người dân phải chịu đựng. Nguyễn Khuyến đã dùng ngôn ngữ giản dị, chân thành, gần gũi để thể hiện những nỗi niềm sâu sắc của mình, khiến bài thơ mang giá trị nhân văn lớn lao.
Tóm lại, bài thơ “Chốn quê” là bức tranh hiện thực sinh động về cuộc sống khó khăn, vất vả của người nông dân Việt Nam dưới ách thống trị phong kiến và ngoại bang. Qua đó, tác giả gửi gắm niềm trăn trở, thương cảm sâu sắc, đồng thời kêu gọi sự quan tâm, thay đổi để cuộc sống người dân bớt khổ đau. Bài thơ vẫn có sức lay động lòng người, là tiếng nói của những mảnh đời nghèo khó cần được lắng nghe và thấu hiểu.
Bài thơ “Chốn quê” của Nguyễn Khuyến được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước lâm vào cảnh khó khăn, người nông dân vất vả với cuộc sống cơ cực nhưng vẫn phải đối mặt với những thử thách, gánh nặng khó giải quyết. Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện một cách chân thực cuộc sống nghèo khổ, vất vả của người nông dân, đồng thời thể hiện sự trăn trở, bức xúc trước những khó khăn không có hồi kết.
Bài thơ gồm tám câu ngắn gọn, mộc mạc nhưng giàu ý nghĩa. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến đã vẽ lên hình ảnh người nông dân “mấy năm làm ruộng vẫn chân thua”, lời than thở ấy như nói lên sự bế tắc, mỏi mệt của người lao động nghèo. Họ cày bừa, làm việc miệt mài trên đồng ruộng nhưng thu hoạch thì “chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”, tức là mùa màng thất bát, không đủ nuôi sống bản thân, đời sống ngày càng khó khăn. Những câu thơ này vừa diễn tả thực trạng thất thu của vụ mùa, vừa cho thấy sự bất lực, nỗi thất vọng không nguôi của người nông dân.
Bên cạnh đó, những gánh nặng từ thuế khóa và nợ nần cũng được tác giả nhắc đến một cách rõ ràng: “Phần thuế quan Tây, phần trả nợ”. Người nông dân không chỉ bị áp lực bởi thiên tai, mất mùa mà còn bị gánh nặng nợ nần, thuế khóa đè nặng, khiến cuộc sống càng thêm khó khăn. Đặc biệt, câu “Nửa công đứa ở, nửa thuê bò” cho thấy nông dân phải làm việc cực nhọc, còn một nửa sản phẩm thu được phải chia cho chủ đất, hoặc phải thuê mướn các vật dụng lao động như con bò kéo cày. Điều đó cho thấy sự bất công trong xã hội lúc bấy giờ, người lao động không được hưởng trọn thành quả lao động của mình.
Nguyễn Khuyến còn miêu tả cuộc sống tiết kiệm đến mức tối giản của người nông dân: “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, chợ búa trầu chè chẳng dám mua”. Câu thơ thể hiện rõ cảnh đời khốn khó, phải ăn uống tạm bợ, không đủ tiền để mua những thứ như trầu, chè - những thứ tưởng chừng như nhỏ bé nhưng lại là biểu tượng của sự đầy đủ, no đủ trong đời sống người Việt. Từ đó, tác giả như muốn nhấn mạnh sự nghèo đói cùng cực, thiếu thốn đủ bề của người dân quê lúc bấy giờ.
Điệp ngữ “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, bao giờ cho biết khỏi đường lo?” vừa là lời tự vấn vừa như lời than thở, bộc lộ nỗi niềm trăn trở, bất lực của người nông dân dù đã cần cù, tiết kiệm đến mức tối đa nhưng vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo khó, vẫn bị cảnh “lo toan” đeo bám. Hai câu cuối như một câu hỏi tu từ nhấn mạnh vào sự bế tắc, không lối thoát, đồng thời cũng là lời kêu gọi sự thay đổi, sự quan tâm của xã hội đối với những người lao động nghèo.
Bài thơ “Chốn quê” không chỉ là tiếng nói của người nông dân khốn khổ mà còn phản ánh một cách chân thực xã hội phong kiến với những bất công, áp bức mà người dân phải chịu đựng. Nguyễn Khuyến đã dùng ngôn ngữ giản dị, chân thành, gần gũi để thể hiện những nỗi niềm sâu sắc của mình, khiến bài thơ mang giá trị nhân văn lớn lao.
Tóm lại, bài thơ “Chốn quê” là bức tranh hiện thực sinh động về cuộc sống khó khăn, vất vả của người nông dân Việt Nam dưới ách thống trị phong kiến và ngoại bang. Qua đó, tác giả gửi gắm niềm trăn trở, thương cảm sâu sắc, đồng thời kêu gọi sự quan tâm, thay đổi để cuộc sống người dân bớt khổ đau. Bài thơ vẫn có sức lay động lòng người, là tiếng nói của những mảnh đời nghèo khó cần được lắng nghe và thấu hiểu.
Câu 1: Truyện được kể theo ngôi thứ ba.
Câu 2: Quỳnh thuộc kiểu nhân vật thông minh, trào phúng trong truyện cười.
Câu 3: Câu nói của Quỳnh hàm ý châm biếm lão trọc phú là người ham ăn, tham lam, chỉ biết hưởng thụ vật chất mà không có kiến thức, chữ nghĩa trong đầu.
Câu 4: Thủ pháp gây cười của truyện là nghệ thuật trào phúng, đối đáp thông minh và sự đối lập giữa lời nói và thực tế.
Câu 5: Tác giả sáng tác truyện nhằm phê phán những kẻ giàu có nhưng dốt nát, thích khoe khoang và học đòi làm sang mà không có thực học. Đồng thời, truyện cũng đề cao trí tuệ, sự nhanh trí của Trạng Quỳnh.
Câu 6:
Câu chuyện trên giúp em nhận ra rằng tri thức là điều quan trọng hơn tiền bạc. Một người giàu có nhưng không có hiểu biết thì cũng chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ. Muốn được tôn trọng, chúng ta phải học hỏi thực sự chứ không phải chỉ làm màu. Ngoài ra, sự thông minh, dí dỏm cũng là một cách giúp ta đối phó với những tình huống trớ trêu trong cuộc sống.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
……..
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời…”
Không hiểu sao mỗi lần đọc những câu thơ này của Xuân Diệu tôi lại thấy day dứt khôn nguôi. Thời gian không ngừng chảy trôi con người ta xuất hiện một lần trong đời rồi lại ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Trong cái ngắn ngủi của tuổi xuân cái hữu hạn mỏng manh của đời người, đã bao giờ bạn tự hỏi. Ta sống hay đang tồn tại? Ta sống có trách nhiệm hay vô trách nhiệm với cuộc đời này? Và khi trả lời được câu hỏi đó thì cũng có nghĩa là bạn đã chọn được cho mình một cuộc sống đẹp, có ý nghĩa.
Chúng ta đều biết tinh thần trách nhiệm và thói vô trách nhiệm thuộc phạm trù đạo đức, chúng đối lập nhau, thể hiện cách sống, lối sống của mỗi người trong mối quan hệ với cộng đồng. Nếu tinh thần trách nhiệm là ý thức và nỗ lực hoàn thành tốt những phận sự của mình đối với gia đình, xã hội thì thói vô trách nhiệm lại là ý thức và hành động không làm tròn phận sự của mình đối với xã hội, gia đình và bản thân gây nên những hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Tinh thần trách nhiệm được biểu hiện cụ thể, sống động trong ba mối quan hệ cơ bản. Trước hết là trách nhiệm của cá nhân với gia đình. Trách nhiệm làm cha, làm mẹ, làm con…trong gia đình. Cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành công dân tốt, con cháu phải có hiếu kính trọng ông, bà, cha, mẹ. mỗi cá nhân phải biết yêu thương, sẻ chia gắng sức xây dựng gia đình hạnh phúc. Đó là trách nhiệm của cá nhân với xã hội: phải làm tròn trách nhiệm của công đân với đất nước, trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, phải biết đặt quyền lợi tập thể lên trên lợi ích cá nhân, phải biết cống hiến, hi sinh…Đó là trách nhiệm của cá nhân với bản thân, thực hiện các hành vi của mình theo các chuẩn mực xã hội, có lối sống lành mạnh, không ngừng phấn đấu học hỏi rèn luyện bản thân.
Trong cuộc sống đã có biết bao tấm gương được người người ngưỡng mộ vì cách sống đầy tinh thần trách nhiệm với đời. Cảm ơn những người nổi tiếng trên thế giới như Các Mác, Ăng Ghen, Ê Đi Sơn, Niu Tơn, Đác Uyn …vì nhờ có họ mà thế giới này không chìm trong bóng tối của bất công và lạc hậu. Ta khâm phục biết máy hình ảnh giáo sư Ngô Bảo Châu lặng lẽ nghiên cứu toán học để chứng minh “Bồ đề cơ bản chương trình Lang lands” bồ đề cơ bản đã tồn tại hơn 30 năm mà chưa ai có thể chứng minh được. Sự cống hiến không mệt mỏi ấy đã đưa giáo sư tới thềm vinh quang, đạt được giải thưởng toán học danh giá nhất trên thế giới. Ta cảm phục biết bao trước Mik Vujicic “người không chân không tay” đã truyền cảm hứng sống, nghị lực sống cho triệu triệu người trên thế giới với câu nói nỏi tiếng “Tôi không có tay để chạm vào người khác nhưng trái tim tôi có thể chạm vào người tôi yêu”. Đó quả là những con người sống thật đáng sống!
Như vậy tinh thần trách nhiệm là một phẩm chất cao đẹp, là thước đo giá trị con người, là cơ sở để xây dựng hạnh phúc. Đồng thời tinh thần trách nhiệm cũng góp phần tạo nên quan hệ xã hội tốt đẹp thúc đẩy sự tiến bộ. Tinh thần trách nhiệm là biểu hiện của lối sống đẹp rất đáng ca ngợi!
Nhưng cũng thật đáng sợ biết bao trước thực tế trong xã hội đó là không ít người đánh mất hai từ “trách nhiệm” Phải chăng vì lối sống vị kỉ chạy theo vòng xoáy của đồng tiền, của danh lợi mà họ đã đánh mất mình, trở thành cái bóng lay lắt trên dòng thời gian. Vô trách nhiệm là không dành tình thương trách nhiệm cho gia đình, không làm tròn những bổn phận của mình trong gia đình. Vô trách nhiệm là sống ích kỉ, bàng quan, chỉ ‘nhận’ mà không biết “cho”, không có ý thức dựng xây một xã hội phồn vinh. Vô trách nhiệm còn là nghiêm khắc với bản thân, sống hoài, sống phí, buông thả theo những cám dỗ cuộc sống. Trong gia dình một người chồng thiếu tinh thần trách nhiệm thì chác chắn gia đình ấy không hạnh phúc. Ngoài xã hội nhiều người vô trách nhiệm sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Ai là người đứng sau vụ việc xả nước thải ra sông Thị Vải ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng ngàn hộ dân? Ai là người có trách nhiệm với sự “ồn ào” của VinaSinh? Vì sự tắc trách, vô trách nhiệm của bác sĩ đã dẫn đến cái chết đau thương tức tưởi của bốn sản phụ ở Quảng Ngãi? Đó phải chăng là : “Những điều trông thây mà đau đớn lòng” sao?
Những con người ấy lành lặn về thể xác nhưng lại có “trái tim tật nguyền”.
Bởi thế cho nên, thói vô trách nhiệm chính là một biểu hiện của lối sống phi đạo đức. Lối sống ấy làm băng hoại đạo đức con người, gây tổn hại hạnh phúc gia đình, gây tổn thất cho cộng đồng và kìm hãm sự phát triển của xã hội. Đúng là như một thứ axit vô hình, thói vô trách nhiệm của cá nhân có thể ăn mòn cả xã hội. Đây là lối sống đáng lên án, phê phán.
Mỗi chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc rằng: Tinh thần trách nhiệm là thước đo phẩm giá con người. Từ đó mà không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, bên cạnh đó cũng cần ý thức rõ tác hại của thói vô trách nhiệm trong cuộc sống. Đó cũng là thái độ sống có trách nhiệm của mọi người trong xã hội văn minh.
Hãy nhớ rằng, thói vô trách nhiệm ở đâu cũng là một điều đáng sợ “ Như một thứ “a xít” vô hình, thói vô trách nhiệm của cá nhân có thể “ăn mòn” cả một xã hội. Đừng để thứ a xít đó ăn mòn chúng ta, biến chúng ta thành “đời thừa”, “ sống mòn” trong cuộc đời này bởi : “Con người ta sinh ra trên đời không phải để là hạt cát vô danh tan biến vào cõi hư vô. Người ta sinh ra là để in dấu trên mặt đất và in dấu trong trái tim mỗi người” (Xu – khôm – lin – xki).