Bùi Duy Đức

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Bùi Duy Đức
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1 : phương thức biểu đạt chính là tự sự

Câu 2 : ngôi thứ nhất

Câu 3 : Chủ đề trích đoạn "Hạ đỏ" củaNguyễn Nhật Ánh là tình cảm tuổi học trò, sự thay đổi của những cảm xúc xúc động, và những kỷ niệm trong những ngày cuối cùng của tuổi học trò . 

Câu 4 : từ ngữ địa phương là : đậu phộng  , từ ngữ toàn dân là : bí đỏ

Câu 5 : Em thấy nhân vật tôi là người rất yêu thương mẹ hiểu được cảm xúc người khác và là một cậu bé rất hiểu chuyện.

Câu 6 : Tình cảm gia đình là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong cuộc sống mỗi con người. Nó không chỉ là nguồn động viên tinh thần mà còn là chỗ dựa vững chắc trong những lúc khó khăn. Gia đình là nơi ta tìm thấy tình yêu thương vô điều kiện, sự sẻ chia và sự chăm sóc, giúp ta trưởng thành và phát triển. Trong môi trường gia đình, mỗi cá nhân học được cách yêu thương, tôn trọng và cảm thông với người khác. Khi đối mặt với những thử thách trong cuộc sống, tình cảm gia đình luôn là điểm tựa tinh thần lớn lao, giúp ta vượt qua mọi khó khăn. Chính vì thế, gia đình luôn là nền tảng vững chắc để mỗi con người vững bước trên con đường đời.

 

Bài làm 

Bài thơ “Chốn Quê” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ ca về cuộc sống của người nông dân miền quê Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX. Bức tranh về nỗi khổ khó, tính kiệm kẹm và mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn được tác giả khắc họa một cách chân thực, đem đến sự đồng cảm và suy ngẫm sâu sắc về hoàn cảnh của họ.

Bài thơ bắt đầu với những dòng chữ đầy cay đắng:

Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Điều này cho thấy cuộc sống làm ruộng của người dân nông thôn là một chuỗi thất bại, vất vả và đầy nhọc nhằn. Nỗi khổ khó trong cuộc sống được thể hiện qua việc phải đối mặt với nợ nần, thuế quan, phải dùng nửa công đứa ở, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Tác giả cũng miêu tả cảnh đời sống thiếu thốn của người dân nông thôn khi phải sớm trưa dưa muối để qua bữa, không dám mua búa trầu chè tại chợ, cho thấy tính kiệm kẹm và khó khăn trong việc chi tiêu.

Tuy nhiên, điều đáng suy ngẫm là dù đã sống kiệm kẹm, cần cù làm việc nhưng người dân nông thôn vẫn chưa có khả năng khá hơn trong cuộc sống. Tác giả đặt câu hỏi “Cần kiệm thế mà không khá nhỉ, Bao giờ cho biết khỏi đường lo?” để thể hiện sự mâu thuẫn trong cuộc sống của người dân nông thôn.

Họ đã nỗ lực, làm việc cật lực nhưng vẫn không thoát khỏi đường đời khốn khổ, vất vả. Đó là sự bóc lột của biết bao nhiêu tầng lớp lên đầu những người dân nghèo khổ và yếu đuối. Không có ai ra mặt giúp những người thấp cổ bé họng đó cả, vậy nên họ luôn phải chịu những ách áp bức nặng nề.

Bài thơ “Chốn Quê” là một lời ca tụng và gửi gắm nỗi niềm của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Đó là cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, nơi mà họ phải sống tích cực, đương đầu với khó khăn và bất công của xã hội.