

NGUYỄN HUYỀN DIỆU
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1:
Trong cuộc sống, thấu hiểu chính mình là một quá trình quan trọng và không hề dễ dàng. Hiểu mình không chỉ là nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu, mà còn là việc nhìn thẳng vào những giới hạn, sai lầm và khát vọng bên trong chính ta. Khi hiểu rõ bản thân, ta sẽ biết mình cần gì, nên làm gì và có thể thay đổi, điều chỉnh bản thân để phát triển tốt hơn. Người không hiểu mình thường dễ mông lung, lệ thuộc vào ý kiến của người khác và dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn. Ngược lại, người thấu hiểu bản thân sẽ vững vàng, biết lựa chọn hướng đi phù hợp, sống đúng với giá trị của mình. Tuy nhiên, việc hiểu mình không phải chuyện nhất thời, mà là cả một hành trình cần sự lắng nghe, trải nghiệm và dũng cảm đối diện. Vì vậy, mỗi người nên học cách sống chậm lại, suy ngẫm nhiều hơn để thấu hiểu bản thân – đó chính là nền tảng quan trọng nhất cho sự trưởng thành và hạnh phúc lâu dài.
Câu 2
Bài thơ “Chuyện của mẹ” của Nguyễn Ba là một tác phẩm cảm động, khắc họa nỗi đau của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Qua những câu thơ giản dị mà đầy ắp nỗi niềm, tác giả thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cùng sự hy sinh cao cả vì đất nước.
“mẹ có năm lần chia li
chồng mẹ ra đi
rồi hóa thành ngàn lau
bời bời nơi địa đầu Tây Bắc”
Ngay đầu bài, tác giả nhấn mạnh số lần chia li, tạo cảm giác đẫm nước mắt. Người mẹ không chỉ mất chồng mà còn như chứng kiến thân thể ông hóa thành “ngàn lau bời bời” nơi địa đầu Tây Bắc, tạo hình ảnh vừa tang thương vừa thiên nhiên hoang dại, nhấn mạnh sự mất mát lớn lao.
“đứa trai đầu
đã thành con sóng nát
trên dòng Thạch Hãn
hoàng hôn buông lại táp đỏ trời”
Đứa con trai đầu hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn – nơi chứng kiến nhiều trận đánh đẫm máu. Hình ảnh “con sóng nát” gợi sự tan vỡ, bi thương. “Hoàng hôn buông lại táp đỏ trời” là hình ảnh biểu tượng cho máu và sự hy sinh dưới ánh chiều tà.
“đứa trai thứ hai
đã băng hết Trường Sơn
chết gần sát Sài Gòn
thịt xương nuôi mối vườn cao su Xuân Lộc”
Tiếp tục là sự hy sinh của đứa con thứ hai trên con đường chiến đấu khắp Trường Sơn, đến gần Sài Gòn. Hình ảnh “thịt xương nuôi mối” nhấn mạnh sự phân hủy, nỗi đau mất mát thật sự và sự cống hiến trọn đời cho đất nước.
“chị gái trước tôi
là dân công hoả tuyến
dầm suối làm cây mốc sống
dẫn xe bộ đội lội ngầm
tuổi thanh xuân nhiều mộng mơ của chị
xanh vào vời vợi trong xanh”
Người chị gái làm dân công hỏa tuyến, chịu gian khổ, vất vả trong thanh xuân. Hình ảnh “dầm suối làm cây mốc sống” thể hiện sự chịu đựng và kiên cường. “Xanh vào vời vợi trong xanh” có thể hiểu là tuổi trẻ và ước mơ bị đẩy vào khói lửa chiến tranh, nhưng vẫn ngời sáng ý chí.
“tôi là mỏi mòn chờ đợi thứ năm
may mắn được trở về bên mẹ
tôi đi về bằng đôi mông đít
chân của tôi
đồng đội chôn trên đồi đất Vị Xuyên”
Nhân vật “tôi” là đứa con thứ năm, may mắn sống sót trở về. Nhưng thân thể tàn tật, phải “đi bằng đôi mông đít” tạo hình ảnh vừa đau lòng vừa thật thà. “Chân của tôi đồng đội chôn” cho thấy sự mất mát không chỉ về thể xác mà còn cả tâm hồn.
“đêm nào cũng lén tôi mẹ khóc
dù về sau đôi mắt bị loà
mẹ thương tôi không có đàn bà
mẹ lo mẹ chết đi
ai người nước nôi, cơm cháo
căn nhà tình nghĩa này
có đủ vững vàng mưa bão”
Người mẹ dù mù lòa vẫn luôn lo lắng cho con, nỗi lo về tương lai không ai chăm sóc “nước nôi, cơm cháo”, về căn nhà nhỏ có “vững vàng mưa bão” hay không. Tình thương và sự lo toan thể hiện qua từng câu thơ giản dị mà sâu sắc.
“đèn, lửa xóm giềng
chẳng ấm nỗi gối chăn
tôi gắng đùa vui
mong mẹ chút yên lòng
mẹ yêu của con ơi
không chỉ là mẹ của con
mẹ đã là
mẹ của non sông đất nước
cháu chắt của mẹ giờ líu lo
khắp ba miền Trung, Nam, Bắc
anh em của con tấp nập mọi miền
dân tộc mình
tồn tại đến giờ
nhờ đùm bọc, yêu thương”
Phần cuối bài thơ mở rộng từ tình mẹ riêng sang hình ảnh mẹ Tổ quốc. Người mẹ là biểu tượng của cả dân tộc, là nguồn cội của sự sống còn và đoàn kết. Câu thơ “mẹ đã là mẹ của non sông đất nước” thể hiện sự vĩ đại của tình mẹ vượt lên trên cả phạm vi cá nhân.
“móm mém mẹ cười
khoé mắt loà khẽ sáng mấy giọt sương…”
Hình ảnh cuối đầy ấm áp nhưng cũng man mác buồn. Nụ cười móm mém, “mấy giọt sương” là những giọt nước mắt nhẹ nhàng, biểu tượng cho niềm an ủi và tình yêu thương ngọt ngào, dù cuộc đời còn nhiều mất mát.
Bài thơ “Chuyện của mẹ” qua từng câu, từng hình ảnh vừa mộc mạc vừa xúc động, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng trong bối cảnh chiến tranh. Tác phẩm vừa phản ánh nỗi đau, sự hy sinh của những người mẹ, vừa tôn vinh sức mạnh của tình yêu thương – nguồn cội tạo nên sức sống và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Câu 1:
Trong cuộc sống, thấu hiểu chính mình là một quá trình quan trọng và không hề dễ dàng. Hiểu mình không chỉ là nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu, mà còn là việc nhìn thẳng vào những giới hạn, sai lầm và khát vọng bên trong chính ta. Khi hiểu rõ bản thân, ta sẽ biết mình cần gì, nên làm gì và có thể thay đổi, điều chỉnh bản thân để phát triển tốt hơn. Người không hiểu mình thường dễ mông lung, lệ thuộc vào ý kiến của người khác và dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn. Ngược lại, người thấu hiểu bản thân sẽ vững vàng, biết lựa chọn hướng đi phù hợp, sống đúng với giá trị của mình. Tuy nhiên, việc hiểu mình không phải chuyện nhất thời, mà là cả một hành trình cần sự lắng nghe, trải nghiệm và dũng cảm đối diện. Vì vậy, mỗi người nên học cách sống chậm lại, suy ngẫm nhiều hơn để thấu hiểu bản thân – đó chính là nền tảng quan trọng nhất cho sự trưởng thành và hạnh phúc lâu dài.
Câu 2
Bài thơ “Chuyện của mẹ” của Nguyễn Ba là một tác phẩm cảm động, khắc họa nỗi đau của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Qua những câu thơ giản dị mà đầy ắp nỗi niềm, tác giả thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cùng sự hy sinh cao cả vì đất nước.
“mẹ có năm lần chia li
chồng mẹ ra đi
rồi hóa thành ngàn lau
bời bời nơi địa đầu Tây Bắc”
Ngay đầu bài, tác giả nhấn mạnh số lần chia li, tạo cảm giác đẫm nước mắt. Người mẹ không chỉ mất chồng mà còn như chứng kiến thân thể ông hóa thành “ngàn lau bời bời” nơi địa đầu Tây Bắc, tạo hình ảnh vừa tang thương vừa thiên nhiên hoang dại, nhấn mạnh sự mất mát lớn lao.
“đứa trai đầu
đã thành con sóng nát
trên dòng Thạch Hãn
hoàng hôn buông lại táp đỏ trời”
Đứa con trai đầu hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn – nơi chứng kiến nhiều trận đánh đẫm máu. Hình ảnh “con sóng nát” gợi sự tan vỡ, bi thương. “Hoàng hôn buông lại táp đỏ trời” là hình ảnh biểu tượng cho máu và sự hy sinh dưới ánh chiều tà.
“đứa trai thứ hai
đã băng hết Trường Sơn
chết gần sát Sài Gòn
thịt xương nuôi mối vườn cao su Xuân Lộc”
Tiếp tục là sự hy sinh của đứa con thứ hai trên con đường chiến đấu khắp Trường Sơn, đến gần Sài Gòn. Hình ảnh “thịt xương nuôi mối” nhấn mạnh sự phân hủy, nỗi đau mất mát thật sự và sự cống hiến trọn đời cho đất nước.
“chị gái trước tôi
là dân công hoả tuyến
dầm suối làm cây mốc sống
dẫn xe bộ đội lội ngầm
tuổi thanh xuân nhiều mộng mơ của chị
xanh vào vời vợi trong xanh”
Người chị gái làm dân công hỏa tuyến, chịu gian khổ, vất vả trong thanh xuân. Hình ảnh “dầm suối làm cây mốc sống” thể hiện sự chịu đựng và kiên cường. “Xanh vào vời vợi trong xanh” có thể hiểu là tuổi trẻ và ước mơ bị đẩy vào khói lửa chiến tranh, nhưng vẫn ngời sáng ý chí.
“tôi là mỏi mòn chờ đợi thứ năm
may mắn được trở về bên mẹ
tôi đi về bằng đôi mông đít
chân của tôi
đồng đội chôn trên đồi đất Vị Xuyên”
Nhân vật “tôi” là đứa con thứ năm, may mắn sống sót trở về. Nhưng thân thể tàn tật, phải “đi bằng đôi mông đít” tạo hình ảnh vừa đau lòng vừa thật thà. “Chân của tôi đồng đội chôn” cho thấy sự mất mát không chỉ về thể xác mà còn cả tâm hồn.
“đêm nào cũng lén tôi mẹ khóc
dù về sau đôi mắt bị loà
mẹ thương tôi không có đàn bà
mẹ lo mẹ chết đi
ai người nước nôi, cơm cháo
căn nhà tình nghĩa này
có đủ vững vàng mưa bão”
Người mẹ dù mù lòa vẫn luôn lo lắng cho con, nỗi lo về tương lai không ai chăm sóc “nước nôi, cơm cháo”, về căn nhà nhỏ có “vững vàng mưa bão” hay không. Tình thương và sự lo toan thể hiện qua từng câu thơ giản dị mà sâu sắc.
“đèn, lửa xóm giềng
chẳng ấm nỗi gối chăn
tôi gắng đùa vui
mong mẹ chút yên lòng
mẹ yêu của con ơi
không chỉ là mẹ của con
mẹ đã là
mẹ của non sông đất nước
cháu chắt của mẹ giờ líu lo
khắp ba miền Trung, Nam, Bắc
anh em của con tấp nập mọi miền
dân tộc mình
tồn tại đến giờ
nhờ đùm bọc, yêu thương”
Phần cuối bài thơ mở rộng từ tình mẹ riêng sang hình ảnh mẹ Tổ quốc. Người mẹ là biểu tượng của cả dân tộc, là nguồn cội của sự sống còn và đoàn kết. Câu thơ “mẹ đã là mẹ của non sông đất nước” thể hiện sự vĩ đại của tình mẹ vượt lên trên cả phạm vi cá nhân.
“móm mém mẹ cười
khoé mắt loà khẽ sáng mấy giọt sương…”
Hình ảnh cuối đầy ấm áp nhưng cũng man mác buồn. Nụ cười móm mém, “mấy giọt sương” là những giọt nước mắt nhẹ nhàng, biểu tượng cho niềm an ủi và tình yêu thương ngọt ngào, dù cuộc đời còn nhiều mất mát.
Bài thơ “Chuyện của mẹ” qua từng câu, từng hình ảnh vừa mộc mạc vừa xúc động, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng trong bối cảnh chiến tranh. Tác phẩm vừa phản ánh nỗi đau, sự hy sinh của những người mẹ, vừa tôn vinh sức mạnh của tình yêu thương – nguồn cội tạo nên sức sống và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Câu 1:
Trong cuộc sống, thấu hiểu chính mình là một quá trình quan trọng và không hề dễ dàng. Hiểu mình không chỉ là nhận thức được điểm mạnh, điểm yếu, mà còn là việc nhìn thẳng vào những giới hạn, sai lầm và khát vọng bên trong chính ta. Khi hiểu rõ bản thân, ta sẽ biết mình cần gì, nên làm gì và có thể thay đổi, điều chỉnh bản thân để phát triển tốt hơn. Người không hiểu mình thường dễ mông lung, lệ thuộc vào ý kiến của người khác và dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn. Ngược lại, người thấu hiểu bản thân sẽ vững vàng, biết lựa chọn hướng đi phù hợp, sống đúng với giá trị của mình. Tuy nhiên, việc hiểu mình không phải chuyện nhất thời, mà là cả một hành trình cần sự lắng nghe, trải nghiệm và dũng cảm đối diện. Vì vậy, mỗi người nên học cách sống chậm lại, suy ngẫm nhiều hơn để thấu hiểu bản thân – đó chính là nền tảng quan trọng nhất cho sự trưởng thành và hạnh phúc lâu dài.
Câu 2
Bài thơ “Chuyện của mẹ” của Nguyễn Ba là một tác phẩm cảm động, khắc họa nỗi đau của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Qua những câu thơ giản dị mà đầy ắp nỗi niềm, tác giả thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cùng sự hy sinh cao cả vì đất nước.
“mẹ có năm lần chia li
chồng mẹ ra đi
rồi hóa thành ngàn lau
bời bời nơi địa đầu Tây Bắc”
Ngay đầu bài, tác giả nhấn mạnh số lần chia li, tạo cảm giác đẫm nước mắt. Người mẹ không chỉ mất chồng mà còn như chứng kiến thân thể ông hóa thành “ngàn lau bời bời” nơi địa đầu Tây Bắc, tạo hình ảnh vừa tang thương vừa thiên nhiên hoang dại, nhấn mạnh sự mất mát lớn lao.
“đứa trai đầu
đã thành con sóng nát
trên dòng Thạch Hãn
hoàng hôn buông lại táp đỏ trời”
Đứa con trai đầu hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn – nơi chứng kiến nhiều trận đánh đẫm máu. Hình ảnh “con sóng nát” gợi sự tan vỡ, bi thương. “Hoàng hôn buông lại táp đỏ trời” là hình ảnh biểu tượng cho máu và sự hy sinh dưới ánh chiều tà.
“đứa trai thứ hai
đã băng hết Trường Sơn
chết gần sát Sài Gòn
thịt xương nuôi mối vườn cao su Xuân Lộc”
Tiếp tục là sự hy sinh của đứa con thứ hai trên con đường chiến đấu khắp Trường Sơn, đến gần Sài Gòn. Hình ảnh “thịt xương nuôi mối” nhấn mạnh sự phân hủy, nỗi đau mất mát thật sự và sự cống hiến trọn đời cho đất nước.
“chị gái trước tôi
là dân công hoả tuyến
dầm suối làm cây mốc sống
dẫn xe bộ đội lội ngầm
tuổi thanh xuân nhiều mộng mơ của chị
xanh vào vời vợi trong xanh”
Người chị gái làm dân công hỏa tuyến, chịu gian khổ, vất vả trong thanh xuân. Hình ảnh “dầm suối làm cây mốc sống” thể hiện sự chịu đựng và kiên cường. “Xanh vào vời vợi trong xanh” có thể hiểu là tuổi trẻ và ước mơ bị đẩy vào khói lửa chiến tranh, nhưng vẫn ngời sáng ý chí.
“tôi là mỏi mòn chờ đợi thứ năm
may mắn được trở về bên mẹ
tôi đi về bằng đôi mông đít
chân của tôi
đồng đội chôn trên đồi đất Vị Xuyên”
Nhân vật “tôi” là đứa con thứ năm, may mắn sống sót trở về. Nhưng thân thể tàn tật, phải “đi bằng đôi mông đít” tạo hình ảnh vừa đau lòng vừa thật thà. “Chân của tôi đồng đội chôn” cho thấy sự mất mát không chỉ về thể xác mà còn cả tâm hồn.
“đêm nào cũng lén tôi mẹ khóc
dù về sau đôi mắt bị loà
mẹ thương tôi không có đàn bà
mẹ lo mẹ chết đi
ai người nước nôi, cơm cháo
căn nhà tình nghĩa này
có đủ vững vàng mưa bão”
Người mẹ dù mù lòa vẫn luôn lo lắng cho con, nỗi lo về tương lai không ai chăm sóc “nước nôi, cơm cháo”, về căn nhà nhỏ có “vững vàng mưa bão” hay không. Tình thương và sự lo toan thể hiện qua từng câu thơ giản dị mà sâu sắc.
“đèn, lửa xóm giềng
chẳng ấm nỗi gối chăn
tôi gắng đùa vui
mong mẹ chút yên lòng
mẹ yêu của con ơi
không chỉ là mẹ của con
mẹ đã là
mẹ của non sông đất nước
cháu chắt của mẹ giờ líu lo
khắp ba miền Trung, Nam, Bắc
anh em của con tấp nập mọi miền
dân tộc mình
tồn tại đến giờ
nhờ đùm bọc, yêu thương”
Phần cuối bài thơ mở rộng từ tình mẹ riêng sang hình ảnh mẹ Tổ quốc. Người mẹ là biểu tượng của cả dân tộc, là nguồn cội của sự sống còn và đoàn kết. Câu thơ “mẹ đã là mẹ của non sông đất nước” thể hiện sự vĩ đại của tình mẹ vượt lên trên cả phạm vi cá nhân.
“móm mém mẹ cười
khoé mắt loà khẽ sáng mấy giọt sương…”
Hình ảnh cuối đầy ấm áp nhưng cũng man mác buồn. Nụ cười móm mém, “mấy giọt sương” là những giọt nước mắt nhẹ nhàng, biểu tượng cho niềm an ủi và tình yêu thương ngọt ngào, dù cuộc đời còn nhiều mất mát.
Bài thơ “Chuyện của mẹ” qua từng câu, từng hình ảnh vừa mộc mạc vừa xúc động, thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng trong bối cảnh chiến tranh. Tác phẩm vừa phản ánh nỗi đau, sự hy sinh của những người mẹ, vừa tôn vinh sức mạnh của tình yêu thương – nguồn cội tạo nên sức sống và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Câu 1.
Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nghị luận.
Câu 2.
Vấn đề được đề cập là: Câu chuyện đèn và trăng ẩn chứa bài học sâu sắc về cách nhìn nhận và đánh giá con người, trong đó quan trọng nhất là khả năng tự nhìn nhận, đánh giá và sửa mình.
Câu 3.Tác giả sử dụng các bằng chứng:
Câu ca dao có kịch tính giữa đèn và trăng, làm nổi bật sự hơn - kém của từng bên.
Dẫn chứng từ tục ngữ “Năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn” để nhấn mạnh sự khác biệt giữa con người.
Dẫn câu thơ trong Truyện Kiều: “Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao” để giải thích hình ảnh đèn trong ca dao
Phân tích sâu sắc từ hình ảnh đèn - trăng - gió - mây để mở rộng liên tưởng về việc tự soi xét bản thân.
Câu 4
Mục đích: Khơi gợi suy ngẫm về đạo lý sống, đặc biệt là khả năng tự nhìn nhận bản thân, từ đó hướng con người đến việc hoàn thiện và phát triển chính mình.
Nội dung: Qua hình ảnh đèn và trăng trong câu ca dao, văn bản nhấn mạnh rằng không ai hoàn hảo, mỗi người đều có điểm mạnh và điểm yếu. Quan trọng là phải biết người, biết mình, biết sửa mình – đó là con đường để tiến bộ.
Câu 5. Cách lập luận của tác giả chặt chẽ, sinh động và giàu tính triết lí.
Mở đầu bằng phân tích câu ca dao để giới thiệu vấn đề.
Tiếp tục mở rộng bằng các câu hỏi gợi mở, dẫn chứng quen thuộc (tục ngữ, thơ Kiều).
Sử dụng liên tưởng, ẩn dụ để khuyến khích người đọc suy nghĩ sâu về bản thân.
Lập luận mang tính chất nhân văn, hướng người đọc đến sự tự hoàn thiện, sống bao dung và sâu sắc.
Câu 1.
“Bí mật của cuộc sống là ngã bảy lần và đứng dậy tám lần.” (Paulo Coelho)
Cuộc sống không bao giờ bằng phẳng mà luôn đầy rẫy những khó khăn, thử thách, và thất bại. Paulo Coelho đã từng viết: “Bí mật của cuộc sống là ngã bảy lần và đứng dậy tám lần.” Câu nói ngắn gọn nhưng thể hiện sâu sắc giá trị của ý chí, bản lĩnh và lòng kiên cường. “Ngã” ở đây không chỉ là thất bại, vấp váp trong hành động, mà còn là những lúc yếu lòng, chùn bước. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là ta đã ngã bao nhiêu lần, mà là mỗi lần ngã, ta lại có dũng khí đứng dậy, làm lại. Chỉ những ai không từ bỏ mới có thể chạm tới thành công và hạnh phúc. Trong thực tế, có không ít người từng thất bại rất nhiều trước khi thành công – như Thomas Edison, chủ nhân của bóng đèn điện, từng thử hàng nghìn lần thất bại trước khi phát minh ra sản phẩm hoàn hảo. Bởi vậy, hãy học cách đứng lên từ thất bại, vì chính những lần ngã ấy sẽ tôi luyện bản lĩnh, giúp ta trưởng thành và sống trọn vẹn hơn.
Câu 2.
Bài thơ số 33 trong chùm Bảo kính cảnh giới là một trong những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tư tưởng, tâm hồn và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trãi – bậc đại trí thức, nhà nho yêu nước. Bài thơ không chỉ thể hiện thái độ siêu thoát trước danh lợi mà còn thể hiện chí khí, phẩm chất thanh cao của người quân tử.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi khẳng định sự từ bỏ con đường công danh:
“Rộng khơi ngại vượt bể triều quan,
Lui tới đòi thì miễn phận an.”
Ông chủ động rời xa chốn quan trường, không bon chen danh lợi. Nhưng đó không phải là sự bi quan, yếm thế, mà là một thái độ sống an nhiên, thuận theo thời thế, giữ cho tâm hồn trong sạch.
Hai câu thực và luận thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên:
“Hé cửa đêm chờ hương quế lọt,
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.”
Từ hình ảnh thơ mộng, tĩnh tại, người đọc cảm nhận được sự ung dung, thanh thản trong tâm hồn thi nhân. Thiên nhiên là nơi ông tìm về để nuôi dưỡng tinh thần và nhân cách.
Bài thơ còn khẳng định chí hướng sống theo đạo lý Nho giáo:
“Đời dùng người có tài Y, Phó,
Nhà ngặt, ta bền đạo Khổng, Nhan.”
Dù không được trọng dụng, ông vẫn trung thành với đạo nghĩa, kiên định với chí hướng của bậc hiền tài. Điều đó cho thấy tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến” đầy bản lĩnh.
Hai câu kết khép lại bằng sự tự khẳng định bản thân:
“Kham hạ hiền xưa toan lẩn được,
Ngâm câu: danh lợi bất như nhàn.”
Nguyễn Trãi không màng danh lợi, lựa chọn sự nhàn tĩnh, lặng lẽ vun bồi tâm hồn và đạo lý. Câu kết thể hiện tư tưởng sống thanh cao, độc lập, vượt lên trên vòng xoáy của danh vọng.
Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng hình ảnh tự nhiên, kết hợp ngôn ngữ giản dị nhưng giàu hàm ý. Giọng điệu trang nhã, điềm đạm, thể hiện tâm thế an nhiên, tự tại của một bậc hiền triết.
Tóm lại, bài thơ là bức chân dung tinh thần sống động của Nguyễn Trãi – một con người luôn hướng đến chân, thiện, mỹ; vượt lên hoàn cảnh, giữ vững lý tưởng sống thanh cao, giàu nhân cách.
Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thông tin (thuyết minh).
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản là thuyết minh (cung cấp thông tin khoa học kết hợp miêu tả).
Câu 3.
Nhan đề “Phát hiện 4 hành tinh trong hệ sao láng giềng của Trái đất” được đặt một cách rõ ràng, chính xác và thu hút.
Nó nêu bật được nội dung chính của văn bản: phát hiện khoa học mới liên quan đến sao Barnard
Từ “láng giềng” được dùng thay cho “gần Trái đất” giúp cách diễn đạt trở nên gần gũi, gợi sự tò mò nơi người đọc.
=> Đây là cách đặt nhan đề hiệu quả, vừa phản ánh nội dung, vừa hấp dẫn người đọc.
Câu 4. Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là hình ảnh mô phỏng sao Barnard và các hành tinh của nó.
Tác dụng:
Trực quan hóa thông tin: giúp người đọc hình dung dễ hơn về hệ sao và các hành tinh xoay quanh nó.
Tăng tính hấp dẫn cho văn bản, tạo điểm nhấn thị giác.
Bổ trợ cho nội dung thông tin khoa học vốn khô khan, làm cho bài báo sinh động và dễ hiểu hơn.
Câu 5.
Văn bản mang tính chính xác và khách quan cao, thể hiện qua:
Dẫn chứng khoa học cụ thể, có nguồn gốc rõ ràng (tên các đài thiên văn, tên tạp chí khoa học, lời các nhà nghiên cứu)
Ngôn ngữ trung lập, không có yếu tố cảm tính hay suy diễn chủ qua
Thông tin được cập nhật mới nhất (tháng 3 và 4 năm 2024) cho thấy độ tin cậy.
=> Nhìn chung, văn bản đáp ứng đầy đủ tiêu chí của một bản tin khoa học nghiêm túc, chính xác và khách quan.
Câu 1.
Trong truyện ngắn Cô hàng xén, nhân vật cô Tâm hiện lên là một người phụ nữ giàu tình yêu thương, đảm đang và đầy nghị lực. Cô là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ tảo tần, chịu thương chịu khó, sớm hôm buôn bán để lo cho mẹ già và các em nhỏ. Dù cuộc sống vất vả, cô vẫn luôn nghĩ đến gia đình: lo các em mong quà, mong tiếng cười sum vầy, chăm lo từng đồng bạc kiếm được để giúp đỡ cha mẹ và nuôi các em ăn học. Niềm vui của cô thật giản dị – là ánh đèn ấm áp, là tiếng chó sủa mừng, là giây phút quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Qua đó, Thạch Lam đã khắc họa một hình ảnh người phụ nữ lao động đầy nhân hậu và cao quý, mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Cô Tâm không chỉ là trụ cột gia đình mà còn là biểu tượng của nghị lực sống, sự hy sinh thầm lặng và tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu sắc.
Câu 2.
Niềm tin vào bản thân là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công và sự trưởng thành của mỗi con người, đặc biệt là với thế hệ trẻ ngày nay. Trong bối cảnh xã hội đầy biến động, cơ hội và thử thách đan xen, niềm tin vào chính mình trở thành ngọn lửa soi đường, là chỗ dựa tinh thần giúp người trẻ vượt qua khó khăn và vững bước trên hành trình khẳng định giá trị bản thân.
Niềm tin vào bản thân là sự nhận thức đúng đắn về khả năng của mình, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về những lựa chọn của bản thân. Người có niềm tin sẽ không dễ dàng bị lung lay bởi những thất bại tạm thời hay những lời phán xét từ bên ngoài. Họ chủ động nắm bắt cơ hội, kiên trì theo đuổi mục tiêu và không ngại đổi thay để trưởng thành. Trong xã hội hiện đại, niềm tin ấy chính là điểm tựa để người trẻ vượt qua áp lực học tập, cạnh tranh nghề nghiệp hay thách thức tâm lý.
Thực tế cho thấy, rất nhiều bạn trẻ ngày nay đã ý thức rõ vai trò của niềm tin và thể hiện được bản lĩnh cá nhân. Những nhà khởi nghiệp trẻ, các học sinh đạt giải quốc tế, hay đơn giản là những bạn vượt qua hoàn cảnh khó khăn để học tốt – tất cả đều minh chứng cho sức mạnh của niềm tin vào bản thân. Tuy nhiên, cũng có không ít người trẻ hiện nay đang mất phương hướng, thiếu tự tin vào năng lực cá nhân, dễ bị ảnh hưởng bởi áp lực đồng trang lứa hoặc mạng xã hội, từ đó dễ sinh ra tâm lý chán nản, tự ti, bỏ cuộc.
Sự thiếu hụt niềm tin có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: từ môi trường giáo dục chưa khuyến khích sáng tạo, đến gia đình thiếu sự động viên, hoặc do chính người trẻ chưa hiểu rõ bản thân mình. Chính vì vậy, việc xây dựng niềm tin không thể chỉ là lời khuyên suông, mà cần bắt đầu từ việc khám phá bản thân, trau dồi năng lực, biết chấp nhận sai lầm và học hỏi từ thất bại
Để nuôi dưỡng niềm tin vào bản thân, người trẻ cần tự rèn luyện tư duy tích cực, biết đặt mục tiêu cụ thể và kiên trì theo đuổi. Gia đình, nhà trường và xã hội cũng cần đóng vai trò là điểm tựa, tạo ra môi trường lành mạnh, khích lệ sự tự tin và khuyến khích sự phát triển cá nhân của thanh thiếu niên.
Tóm lại, niềm tin vào bản thân là chìa khóa giúp giới trẻ tự khẳng định mình trong hành trình vươn tới ước mơ. Một người trẻ có niềm tin sẽ là người sống chủ động, sáng tạo và biết vươn lên trong mọi hoàn cảnh. Hãy tin vào bản thân – bởi nếu chính mình còn không tin mình thì ai sẽ tin mình trước tiên?
Câu 1.Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm.
Câu 2.
Bến vắng bên sông
Cây tự quên mình trong quá
Trời xanh nhẫn nại sau mây
Con đường nhỏ dẫn về bao tổ ấm
Câu 3. Biện pháp tu từ: Ẩn dụ và câu hỏi tu từ.
Tác dụng: Câu thơ sử dụng hình ảnh “quả” để ẩn dụ cho con cái khi đã trưởng thành, thành đạt; còn “cây” là hình ảnh người mẹ tảo tần hy sinh. Câu hỏi tu từ thể hiện sự day dứt, trăn trở trước thực tế là nhiều người con khi thành công thường quên đi công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ. Qua đó, câu thơ nhấn mạnh sự cần thiết phải ghi nhớ, biết ơn công lao của mẹ.
Câu 4.
Hai dòng thơ thể hiện tình cảm yêu thương sâu sắc và lòng biết ơn của người con đối với mẹ. Người con mong muốn có thể dùng những lời dịu dàng, trìu mến để an ủi, sưởi ấm và làm dịu đi những tháng năm tuổi già vất vả, cô đơn của mẹ. Đó là sự thức tỉnh tình cảm và khát khao được báo đáp công ơn sinh thành.
Câu 5.
Từ đoạn trích, em rút ra bài học: Hãy luôn trân trọng, yêu thương và biết ơn cha mẹ – những người đã hy sinh thầm lặng cả cuộc đời để nuôi dưỡng và dõi theo từng bước trưởng thành của con cái. Khi còn có thể, hãy quan tâm, chăm sóc và dành những lời yêu thương cho cha mẹ, bởi tình cảm ấy là điều thiêng liêng không gì thay thế được.
câu 1:
Mark Twain đã từng nói: “Hai mươi năm sau bạn sẽ hối hận vì những gì bạn đã không làm, hơn là những gì bạn đã làm.” Câu nói ấy nhắn nhủ chúng ta hãy mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn để sống một cuộc đời ý nghĩa. Trong cuộc sống, nhiều người vì sợ thất bại, vì lo nghĩ quá nhiều mà bỏ lỡ những cơ hội quý giá. Họ chọn sự an toàn thay vì thử thách, chọn im lặng thay vì thể hiện ước mơ. Nhưng rồi thời gian trôi qua, điều khiến họ day dứt không phải là những vấp ngã, mà là những lần không dám bước tới. Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất để trải nghiệm, khám phá, dấn thân và trưởng thành. Dù có thể sai lầm, thất bại, nhưng đó chính là cách để ta học hỏi và hoàn thiện bản thân. Nếu cứ mãi neo mình ở bến đỗ an toàn, chúng ta sẽ không bao giờ biết ngoài kia biển lớn đẹp đến thế nào. Vì vậy, hãy can đảm sống trọn vẹn với khát vọng của mình, để mai này không phải hối tiếc vì những điều chưa từng dám làm.
câu 2:
Nhà văn Thạch Lam là cây bút nổi bật trong nhóm Tự lực văn đoàn, nổi tiếng với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và đầy cảm xúc. Trong đoạn trích truyện ngắn Trở về, ông đã khắc họa thành công hình ảnh người mẹ nơi thôn quê – một con người giàu yêu thương, tảo tần, hy sinh thầm lặng cho con nhưng lại bị chính người con mình nuôi lớn đối xử hờ hững. Nhân vật người mẹ hiện lên vừa quen thuộc, vừa khiến người đọc xúc động sâu sắc.
Bà là người mẹ nghèo, sống trong ngôi nhà cũ kỹ, đơn sơ, vẫn mặc bộ áo quần cũ như bao năm về trước. Bà không có gì ngoài tình yêu thương lớn lao dành cho con. Dù Tâm – đứa con trai duy nhất – đã rời xa quê, vô tâm không hỏi han, thậm chí quên cả việc đã có vợ, nhưng bà chưa từng trách móc. Gặp lại con sau sáu năm xa cách, bà chỉ ứa nước mắt và nói: “Con đã về đấy ư?”, một câu nói giản dị mà chan chứa yêu thương, chờ mong. Suốt buổi gặp gỡ, bà ân cần hỏi han, kể về làng quê, về người thân, về cô Trinh – như để kết nối với con, giữ con lại lâu thêm chút nữa. Nhưng đáp lại, Tâm dửng dưng, lạnh nhạt, chỉ muốn rời đi thật nhanh. Khi được con đưa tiền, bà xúc động đến rơm rớm nước mắt – không phải vì tiền, mà vì hạnh phúc nhỏ nhoi khi được con nhớ đến. Sự khẩn khoản giữ con ở lại ăn bữa cơm đã cho thấy nỗi cô đơn, thèm khát tình cảm của người mẹ già. Nhưng rồi, bà lại lặng lẽ nhìn con bước đi, như bao năm qua vẫn lặng lẽ sống với nỗi nhớ con.
Qua hình ảnh người mẹ, Thạch Lam đã thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm. Ông không chỉ xót thương cho những người phụ nữ nghèo bị lãng quên, mà còn nhắc nhở mỗi người hãy biết yêu thương và trân trọng tình cảm gia đình. Bởi tình mẹ là điều thiêng liêng nhất, một khi đã đánh mất thì không bao giờ tìm lại được.
câu 1:
Mark Twain đã từng nói: “Hai mươi năm sau bạn sẽ hối hận vì những gì bạn đã không làm, hơn là những gì bạn đã làm.” Câu nói ấy nhắn nhủ chúng ta hãy mạnh dạn bước ra khỏi vùng an toàn để sống một cuộc đời ý nghĩa. Trong cuộc sống, nhiều người vì sợ thất bại, vì lo nghĩ quá nhiều mà bỏ lỡ những cơ hội quý giá. Họ chọn sự an toàn thay vì thử thách, chọn im lặng thay vì thể hiện ước mơ. Nhưng rồi thời gian trôi qua, điều khiến họ day dứt không phải là những vấp ngã, mà là những lần không dám bước tới. Tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất để trải nghiệm, khám phá, dấn thân và trưởng thành. Dù có thể sai lầm, thất bại, nhưng đó chính là cách để ta học hỏi và hoàn thiện bản thân. Nếu cứ mãi neo mình ở bến đỗ an toàn, chúng ta sẽ không bao giờ biết ngoài kia biển lớn đẹp đến thế nào. Vì vậy, hãy can đảm sống trọn vẹn với khát vọng của mình, để mai này không phải hối tiếc vì những điều chưa từng dám làm.
câu 2:
Nhà văn Thạch Lam là cây bút nổi bật trong nhóm Tự lực văn đoàn, nổi tiếng với phong cách trữ tình, nhẹ nhàng và đầy cảm xúc. Trong đoạn trích truyện ngắn Trở về, ông đã khắc họa thành công hình ảnh người mẹ nơi thôn quê – một con người giàu yêu thương, tảo tần, hy sinh thầm lặng cho con nhưng lại bị chính người con mình nuôi lớn đối xử hờ hững. Nhân vật người mẹ hiện lên vừa quen thuộc, vừa khiến người đọc xúc động sâu sắc.
Bà là người mẹ nghèo, sống trong ngôi nhà cũ kỹ, đơn sơ, vẫn mặc bộ áo quần cũ như bao năm về trước. Bà không có gì ngoài tình yêu thương lớn lao dành cho con. Dù Tâm – đứa con trai duy nhất – đã rời xa quê, vô tâm không hỏi han, thậm chí quên cả việc đã có vợ, nhưng bà chưa từng trách móc. Gặp lại con sau sáu năm xa cách, bà chỉ ứa nước mắt và nói: “Con đã về đấy ư?”, một câu nói giản dị mà chan chứa yêu thương, chờ mong. Suốt buổi gặp gỡ, bà ân cần hỏi han, kể về làng quê, về người thân, về cô Trinh – như để kết nối với con, giữ con lại lâu thêm chút nữa. Nhưng đáp lại, Tâm dửng dưng, lạnh nhạt, chỉ muốn rời đi thật nhanh. Khi được con đưa tiền, bà xúc động đến rơm rớm nước mắt – không phải vì tiền, mà vì hạnh phúc nhỏ nhoi khi được con nhớ đến. Sự khẩn khoản giữ con ở lại ăn bữa cơm đã cho thấy nỗi cô đơn, thèm khát tình cảm của người mẹ già. Nhưng rồi, bà lại lặng lẽ nhìn con bước đi, như bao năm qua vẫn lặng lẽ sống với nỗi nhớ con.
Qua hình ảnh người mẹ, Thạch Lam đã thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm. Ông không chỉ xót thương cho những người phụ nữ nghèo bị lãng quên, mà còn nhắc nhở mỗi người hãy biết yêu thương và trân trọng tình cảm gia đình. Bởi tình mẹ là điều thiêng liêng nhất, một khi đã đánh mất thì không bao giờ tìm lại được.