

Giàng Mỹ Hoa
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận.
Câu 2. Hai cặp từ, cụm từ đối lập được sử dụng trong đoạn (1) là:
Tằn tiện – phung phí
Ở nhà – bay nhảy
Câu 3.Tác giả cho rằng đừng bao giờ phán xét người khác một cách dễ dàng vì:
Mỗi người có một hoàn cảnh, tính cách và lựa chọn sống khác nhau. Nếu chỉ nhìn nhận từ quan điểm cá nhân mà đưa ra phán xét, chúng ta dễ rơi vào sự phiến diện, hiểu lầm và thiếu công bằng. Điều đó không những không giúp ta hiểu người khác mà còn có thể tạo ra sự tổn thương, chia rẽ trong các mối quan hệ.
Câu 4.Quan điểm “Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó” có thể hiểu là:
Khi con người sống theo định kiến – dù là của chính bản thân hay của người khác – nghĩa là họ đánh mất sự tự do trong suy nghĩ và hành động. Việc để bản thân bị chi phối bởi những khuôn mẫu cứng nhắc khiến ta không còn dám sống thật, không dám theo đuổi điều mình mong muốn, từ đó đánh mất bản sắc cá nhân và cơ hội phát triển bản thân.
Câu 5.Thông điệp rút ra từ văn bản:
Hãy học cách lắng nghe bản thân, sống đúng với giá trị của mình và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng dễ dàng phán xét, và càng không nên sống trong sự áp đặt của định kiến – bởi chỉ có sự thấu hiểu và bao dung mới giúp con người thực sự kết nối và sống ý nghĩa hơn.
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Nghị luận.
Câu 2. Hai cặp từ, cụm từ đối lập được sử dụng trong đoạn (1) là:
Tằn tiện – phung phí
Ở nhà – bay nhảy
Câu 3.Tác giả cho rằng đừng bao giờ phán xét người khác một cách dễ dàng vì:
Mỗi người có một hoàn cảnh, tính cách và lựa chọn sống khác nhau. Nếu chỉ nhìn nhận từ quan điểm cá nhân mà đưa ra phán xét, chúng ta dễ rơi vào sự phiến diện, hiểu lầm và thiếu công bằng. Điều đó không những không giúp ta hiểu người khác mà còn có thể tạo ra sự tổn thương, chia rẽ trong các mối quan hệ.
Câu 4.Quan điểm “Điều tồi tệ nhất là chúng ta chấp nhận buông mình vào tấm lưới định kiến đó” có thể hiểu là:
Khi con người sống theo định kiến – dù là của chính bản thân hay của người khác – nghĩa là họ đánh mất sự tự do trong suy nghĩ và hành động. Việc để bản thân bị chi phối bởi những khuôn mẫu cứng nhắc khiến ta không còn dám sống thật, không dám theo đuổi điều mình mong muốn, từ đó đánh mất bản sắc cá nhân và cơ hội phát triển bản thân.
Câu 5.Thông điệp rút ra từ văn bản:
Hãy học cách lắng nghe bản thân, sống đúng với giá trị của mình và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đừng dễ dàng phán xét, và càng không nên sống trong sự áp đặt của định kiến – bởi chỉ có sự thấu hiểu và bao dung mới giúp con người thực sự kết nối và sống ý nghĩa hơn.
Câu 1: Cảm nhận đặc sắc nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ
Đoạn thơ “Tôi đi về phía tuổi thơ” của Trương Trọng Nghĩa là một tác phẩm đầy cảm xúc và sâu sắc, thể hiện sự hoài niệm về quá khứ và những biến đổi của làng quê trong cuộc sống hiện đại. Nội dung của đoạn thơ là nỗi nhớ về làng xưa, về những kỷ niệm tuổi thơ trong làng quê, khi mà mọi thứ vẫn còn mộc mạc, giản dị và đậm đà bản sắc truyền thống. Hình ảnh “giẫm lên dấu chân những đứa bạn đã rời làng kiếm sống” mở đầu bài thơ, gợi lên sự mất mát, sự xa cách của những người bạn đã rời quê hương để mưu sinh nơi chốn xa xôi. Sự thiếu thốn, vất vả của đời sống nông dân hiện lên qua câu thơ “Đất không đủ cho sức trai cày ruộng, mồ hôi chẳng hóa thành bát cơm no”, phản ánh nỗi khổ cực của những người lao động nghèo.
Nỗi nhớ về những gì đã mất, về sự thay đổi của làng quê cũng được thể hiện rõ nét qua việc thiếu vắng những giá trị văn hóa truyền thống như “Thiếu nữ bây giờ không còn hát dân ca, cũng thôi để tóc dài ngang lưng nữa”. Những hình ảnh ấy làm cho người đọc cảm thấy tiếc nuối, xót xa vì sự mai một của những nét đẹp văn hóa truyền thống. Bức tranh quê hương trở nên khác lạ, “cánh đồng làng giờ nhà cửa chen chúc mọc”, những “lũy tre ngày xưa” không còn nữa. Đó là sự phát triển của đô thị hóa, nhưng cũng là sự đánh mất của những giá trị xưa cũ.
Về mặt nghệ thuật, Trương Trọng Nghĩa sử dụng những hình ảnh bình dị, gần gũi nhưng lại rất sâu sắc và giàu cảm xúc. Câu thơ ngắn gọn, dứt khoát nhưng lại chứa đựng những suy ngẫm về sự thay đổi của cuộc sống. Hình ảnh “mang lên phố những nỗi buồn ruộng rẫy” không chỉ là sự mất mát về không gian, mà còn là nỗi buồn của sự chia ly, của những biến đổi không thể tránh khỏi trong cuộc sống hiện đại. Đoạn thơ không chỉ là sự thể hiện nỗi nhớ về quá khứ mà còn là sự trăn trở về sự thay đổi của làng quê, của đất nước trong bối cảnh hiện đại.
Câu 2: Ý kiến về mạng xã hội trong cuộc sống hiện đại
Mạng xã hội đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại, mang lại nhiều tiện ích nhưng cũng không thiếu những tác động tiêu cực. Trong thế giới ngày nay, mạng xã hội không chỉ là nơi để giao tiếp, kết nối bạn bè, gia đình mà còn là công cụ mạnh mẽ để quảng bá hình ảnh, xây dựng thương hiệu cá nhân và phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, từ công việc đến giải trí. Tuy nhiên, như mọi thứ khác, mạng xã hội có hai mặt.
Một trong những mặt tích cực của mạng xã hội là khả năng kết nối con người dù ở khoảng cách xa. Các ứng dụng như Facebook, Instagram, Twitter, hay TikTok giúp mọi người có thể giữ liên lạc với bạn bè, người thân, thậm chí là tìm được những người có cùng sở thích, mục đích trong cuộc sống. Không chỉ vậy, mạng xã hội còn là kênh thông tin nhanh chóng, nơi người dùng có thể tiếp cận với các tin tức mới nhất, xu hướng toàn cầu, và học hỏi những kiến thức hữu ích.
Bên cạnh đó, mạng xã hội cũng là công cụ quảng bá mạnh mẽ cho các doanh nghiệp, các sản phẩm và dịch vụ, giúp họ tiếp cận một lượng lớn khách hàng mà không phải tốn quá nhiều chi phí. Nhiều người cũng đã tận dụng mạng xã hội để phát triển sự nghiệp cá nhân, chia sẻ kiến thức chuyên môn, hoặc tham gia vào các hoạt động từ thiện, xây dựng cộng đồng.
Tuy nhiên, mặt trái của mạng xã hội cũng không thể không nhắc đến. Mạng xã hội dễ dàng khiến người dùng lún sâu vào thế giới ảo, làm mờ ranh giới giữa thực và ảo. Việc lạm dụng mạng xã hội có thể dẫn đến cảm giác cô đơn, tự ti, khi người dùng so sánh cuộc sống của mình với những hình ảnh “sống ảo” của người khác. Hơn nữa, thông tin trên mạng xã hội đôi khi thiếu kiểm chứng, gây ra tình trạng lan truyền tin giả, tạo ra hoang mang, lo sợ cho cộng đồng.
Mạng xã hội cũng có thể là “con dao hai lưỡi” trong việc xâm phạm quyền riêng tư. Những thông tin cá nhân, hình ảnh hay thậm chí là cuộc sống riêng tư của người dùng có thể bị lợi dụng, bị rò rỉ hoặc bị các đối tượng xấu lợi dụng vào mục đích không chính đáng. Ngoài ra, mạng xã hội còn dễ tạo ra những nhóm người có cùng quan điểm cực đoan, dẫn đến tình trạng phân hóa xã hội, thậm chí là xung đột trong cộng đồng.
Tóm lại, mạng xã hội là một công cụ mạnh mẽ, có thể đem lại nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Vì vậy, mỗi người dùng cần có ý thức, sử dụng mạng xã hội một cách tỉnh táo, không để nó chi phối cuộc sống và mối quan hệ thực tế. Việc giáo dục kỹ năng sử dụng mạng xã hội đúng cách, kết hợp với các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư, sẽ giúp giảm thiểu những tác động tiêu cực từ mạng xã hội trong cuộc sống hiện đại.
1Thể thơ của văn bản trên là thể thơ tự do
2 . Các tính từ miêu tả hạnh phúc qua những tính từ :xanh,thơm,im lặng,dịu dàng,vô tư.
3. Đoạn thơ ví hạnh phúc như moo quả ngọt ngào,lan tản hương thơm nhẹ nhàng,không ôn ào mà âm thầm,lặng lẽ . Điều này cho thấy hạnh phúc đôi khi không đến từ những điều lớn lao hay phô trương , mà nằm ở sự giản dị , tinh tế và sâu lắng trong cuộc sống.
4. Biện pháp tu từ so sánh “hạnh phúc đôi khi như sông” giúp cụ thể hóa và hình tượng hóa khái niệm trừu tượng là “hạnh phúc”. Hình ảnh dòng sông trôi “vô tư” về biển cả thể hiện một niềm hạnh phúc tự nhiên, thanh thản và không toan tính. Dù “đầy” hay “vơi” – đủ đầy hay thiếu hụt – hạnh phúc vẫn hiện diện nếu con người sống buông bỏ và bình yên.
5. Quan niệm về hạnh phúc của tác giả được thể hiện qua những hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng vô cùng sâu sắc, như lá xanh, quả thơm, dòng sông. Tác giả cho rằng hạnh phúc không phải là những điều lớn lao hay vật chất mà là sự bình yên, tự tại trong tâm hồn. Hạnh phúc đến một cách tự nhiên, không cần cầu kỳ hay toan tính, mà chỉ cần sống đúng với bản thân và tận hưởng những khoảnh khắc giản dị của cuộc sống.
1Thể thơ của văn bản trên là thể thơ tự do
2 . Các tính từ miêu tả hạnh phúc qua những tính từ :xanh,thơm,im lặng,dịu dàng,vô tư.
3. Đoạn thơ ví hạnh phúc như moo quả ngọt ngào,lan tản hương thơm nhẹ nhàng,không ôn ào mà âm thầm,lặng lẽ . Điều này cho thấy hạnh phúc đôi khi không đến từ những điều lớn lao hay phô trương , mà nằm ở sự giản dị , tinh tế và sâu lắng trong cuộc sống.
4. Biện pháp tu từ so sánh “hạnh phúc đôi khi như sông” giúp cụ thể hóa và hình tượng hóa khái niệm trừu tượng là “hạnh phúc”. Hình ảnh dòng sông trôi “vô tư” về biển cả thể hiện một niềm hạnh phúc tự nhiên, thanh thản và không toan tính. Dù “đầy” hay “vơi” – đủ đầy hay thiếu hụt – hạnh phúc vẫn hiện diện nếu con người sống buông bỏ và bình yên.
5. Quan niệm về hạnh phúc của tác giả được thể hiện qua những hình ảnh giản dị, gần gũi nhưng vô cùng sâu sắc, như lá xanh, quả thơm, dòng sông. Tác giả cho rằng hạnh phúc không phải là những điều lớn lao hay vật chất mà là sự bình yên, tự tại trong tâm hồn. Hạnh phúc đến một cách tự nhiên, không cần cầu kỳ hay toan tính, mà chỉ cần sống đúng với bản thân và tận hưởng những khoảnh khắc giản dị của cuộc sống.
Chọn mốc thế năng tại mặt đất
Theo định luật bảo toàn năng lượng
W=Wd+Wt=5:2Wt
W=5:2mgz
m=2W:5gz=2.37,5:5.10.3=0,5(kg)
Ta có
Wd=32Wt
1:2mv^2=3:2mgz
v=√3.gz≈9,49(m/s)
Công của lực kéo là
A=F.s.cosα=200.10.cos60=1000 (J)
Công suất của người đó là
P=A:t=1000:5=200 (W)
Ta có \(W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} = m g h = 0 , 2.10.10 = 20 \left(\right. J \left.\right)\)
Vận tốc của vật khi chạm đất là \(v = \sqrt{2 g h} = \sqrt{2.10.10} = 10 \sqrt{2} \left(\right. m / s \left.\right)\)
\(\Rightarrow W_{đ_{c h ạ m đ \overset{ˊ}{\hat{a}} t}} = \frac{1}{2} m v^{2} = \frac{1}{2} . 0 , 2. \left(\left(\right. 10 \sqrt{2} \left.\right)\right)^{2} = 20 \left(\right. J \left.\right)\)
Ta thấy \(W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} = W_{đ_{c h ạ m đ \overset{ˊ}{\hat{a}} t}} = 20 J\)
b) Cơ năng của vật là \(W = W_{t_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}} + W_{đ_{đ \overset{ˋ}{\hat{a}} u}}\) \(= 20 J\) (vì \(v_{0} = 0 \left(\right. m / s \left.\right)\))
Gọi vị trí mà động năng bằng thế năng là \(A\)
\(\Rightarrow W_{t_{A}} = W_{đ_{A}}\)
\(\Rightarrow W_{t_{A}} = \frac{1}{2} W_{A} = \frac{1}{2} W = 10 J\)
\(\Rightarrow m g h_{A} = 10 J\)
\(\Rightarrow 0 , 2.10 h_{A} = 10 J\)
\(\Rightarrow h_{A} = 5 \left(\right. m \left.\right)\)
Vậy khi vật ở độ cao 5m so với mặt đất thì động năng bằng thế năng.
a) Trọng lượng vật chính là lực để kéo vật lên:
\(F = P = 10 m = 10 \cdot 1200 = 12000 \left(\right. N \left.\right)\)
Công suất của động cơ:
\(P_{1} = F \cdot v = 12000 \cdot 1 = 12000 \left(\right. W \left.\right)\)
b) Chọn chiều dương là chiều chuyển động.
Áp dụng định luật ll Niu-tơn ta có: \(\overset{\rightarrow}{F_{k}} + \overset{\rightarrow}{P} = m \cdot \overset{\rightarrow}{a}\)
\(\Rightarrow F_{k} - P = m \cdot a \Rightarrow F_{k} = m \cdot a + P = 1200 \cdot 0 , 8 + 12000 = 12960 \left(\right. N \left.\right)\)
Vận tốc vật đạt khi di chuyển trên độ cao \(10 m\) là:
\(v^{2} - v_{0}^{2} = 2 a S \Rightarrow v = \sqrt{2 a S} = \sqrt{2 \cdot 0 , 8 \cdot 10} = 4 m / s\)
Công suất trung bình của động cơ:
\(P = F_{k} \cdot v = 12960 \cdot 4 = 51840 \left(\right. W \left.\right)\)
Chọn chiều dương là chiều chuyển động của vật.
Gia tốc vật: \(v^{2} - v_{0}^{2} = 2 a S\)
\(\Rightarrow a = \frac{v^{2} - v_{0}^{2}}{2 S} = \frac{6^{2} - 2^{2}}{2 \cdot 8} = 2 m / s^{2}\)
Áp dụng định luật ll Niu-tơn: \(P s i n \alpha - F_{m s} = m \cdot a\)
\(\Rightarrow F_{m s} = P s i n \alpha - m \cdot a = 1 , 5 \cdot 10 \cdot s i n 3 0^{o} - 1 , 5 \cdot 2 = 4 , 5 N\)
Công của trọng lực: \(A = P s i n \alpha \cdot s = 1 , 5 \cdot 10 \cdot s i n 3 0^{o} \cdot 8 = 60 J\)
Công của lực ma sát: \(A_{m s} = - F_{m s} \cdot s = - 4 , 5 \cdot 8 = - 36 J\)