Nguyễn Hà Mi

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Hà Mi
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Nguyễn Khuyến hay còn được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ là một trong những nhà thơ Nôm nổi tiếng nhất của Việt Nam. Thơ ông là sự kết hợp giữa vẻ đẹp tao nhã, trau chuốt với vẻ đẹp tự nhiên, hàm súc mà chân thành. Bạn đến chơi nhà là một bài thơ như vậy. Bài thơ đã cho thấy tình bạn thắm thiết sâu nặng, và đây cũng là một trong những chủ đề sáng tác nổi bật của ông.

Nội dung bao trùm bài thơ là tình bạn chân thành, thắm thiết, nó được bộc lộ qua hoàn cảnh tiếp đãi hết sức bất ngờ, thú vị. Mở đầu bài thơ cho thấy mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa hai người: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà”. Tiếng gọi “bác” thật gần gũi, dân dã mà vẫn thể hiện được sự kính trọng. “Đã bấy lâu nay” cách tính thời gian của tác giả cũng phần nào cho thấy Nguyễn Khuyến thường xuyên nghĩ đến bạn, mong gặp bạn nên mới nhớ được khoảng thời gian gặp gỡ từ lần trước đến lần này là bao lâu. Sau câu thơ mở đầu, hàng loạt tình huống éo le đã diễn ra.

Trước hết trẻ con không ở nhà, nên không có ai đi chợ, vậy có lẽ nơi quê nhà của tác giả sẽ có những món ăn giản dị để tiếp đãi người bạn thân thiết của mình chăng? Nhưng trái lại, những món ăn sơn hào hải vị đã không có nay những thứ có sẵn ở nhà cũng không thể dùng để làm mâm cơm mời khách: ao sâu, nước lớn nên “khôn chài cá”, vườn rộng rào thưa khó đuổi được gà. Đến rau quả cũng không: bầu vừa rụng rốn, cà mới nụ, cải chưa lên cây, … Nhà có cả mà hóa ra lại thành không có thứ gì. Sự thiếu thốn còn được đẩy lên một cấp độ cao hơn nữa: “Đầu trò tiếp khách trầu không có”. Trong văn hóa người Việt, miếng trầu là đầu câu chuyện, trong nhà ai cũng có miếng trầu thơm, quả cau khô để tiếp đãi khách đến nhà. Nhưng nhà Nguyễn Khuyến đến điều cơ bản ấy cũng không có. Nhưng có phải thật là như vậy không, một con người chu đáo, cẩn thận như Nguyễn Khuyến có lẽ sẽ không để tình huống ấy xảy ra. Tác giả đưa ra tình huống éo le: trẻ đi vắng, chợ xa, nhà thiếu thốn,… để thử thách tấm lòng trong tình bạn, thử thách này là thử thách dành cho hai người, liệu đây có phải một tình bạn đẹp, tình

Không phải là cái “ta với ta” cô đơn, lạc lõng như Bà Huyện Thanh Quan mà là “ta với ta” của tình bạn đẹp đẽ, sâu đậm. Giữa chủ và khách đã không còn khoảng cách, hai người hòa làm một. Mặc dù vật chất thiếu thốn, nhưng cái còn đọng lại, cái quan trọng nhất chính là tình cảm, tình bạn thắm thiết. Có lẽ trong cuộc tiếp đãi đó không có cơm canh, không có miếng trầu thơm nhưng nó vẫn diễn ra hết sức vui vẻ, thân mật, gần gũi. Đây mới thực sự là tình bạn chân chính.

Bài thơ đã vận dụng tài tình cách lập ý, tạo tình huống bất ngờ, hấp dẫn, đưa ra hàng loạt các thiếu thốn, để từ cái không đó nói về cái có: tình bạn chân thành, thắm thiết. Lời thơ bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức điêu luyện. Dùng nhiều khẩu ngữ, đậm chất lời ăn tiếng nói hàng ngày: “thời, khôn, chửa…” điêu luyện trong cách dùng từ “ta với ta” tuy hai mà một, bao gồm cả chủ và khách. Hình ảnh mộc mạc, dân dã, quen thuộc của làng quê Việt Nam: ao cá, vườn rau.

Bài thơ đã đạt đến sự hài hòa về nội dung, điêu luyện về nghệ thuật. Tác phẩm khẳng định tình bạn là một tình cảm thiêng liêng, cao quý chúng ta phải biết nâng niu, trân trọng. Cái cốt yếu nhất trong tình bạn không phải là của cải vật chất mà là cách hành xử, đối đãi với nhau. Quan niệm của Nguyễn Khuyến về tình bạn vẫn có ý nghĩa và giá trị bền vững, lâu dài.

Không phải ngẫu nhiên mà Rasul Gamzatov đã từng tâm niệm rằng: "Thơ ca bắt nguồn từ những âm vang của tâm hồn”. Thật vậy, thơ ca muôn đời là nơi bộc lộ những trở trăn, những thổn thức của trái tim người nghệ sĩ trước cuộc đời. Và thơ của Nguyễn Bảo cũng chính là nỗi niềm chân thành của thi nhân. Đến với thế giới nghệ thuật của nhà thơ, người đọc sẽ bắt gặp những cảm xúc đầy dư âm qua thi phẩm “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại”.

“Phân phất mưa phùn xâm xẩm bay

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày

Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó

Bà lão chiều còn xới đậu đây

Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn

Khoai trong đám cỏ đã xanh cây

Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú

Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.

Nguyễn Bảo, nhà thơ - danh nhân văn hóa Việt Nam, là một trong những nhân vật trọng yếu trên nhiều lĩnh vực hoạt động ở thế kỉ XV. Trong sự nghiệp trước của Nguyễn Bảo, thơ ca là bộ phận đặc sắc, thể hiện cống hiến quan trọng nhất của ông. Thơ ca của ông có nội dung phong phú, bao gồm nhiều mảng đề tài lớn, như: đề tài viết về cảnh sắc những miền quê, đề tài viết về lịch sử - phong vật đất nước, đề tài viết về đời sống nông thôn... Điểm chung của các đề tài trên đó là đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc sống,  con người của tác giả. Những vần thơ thật đẹp, thật giản dị, chân chất nhưng sâu xa, là niềm thương nước, ưu dân… được lọc qua một tâm hồn đồng điệu, tinh tế.

Bài thơ "Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một tác phẩm xuất sắc của nhà thơ Nguyễn Bảo. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh làng quê vào một buổi chiều xuân với những hình ảnh quen thuộc, mộc mạc: mưa phùn, trâu cày, gieo dưa, xới đậu, mía nảy ngọn, khoai xanh cây. Tất cả đều mang vẻ đẹp giản dị, chân chất của làng quê Việt Nam. Qua đó, thể hiện tấm lòng yêu quê hương, gắn bó sâu đậm của thi nhân.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân miền Bắc với hình ảnh của mưa phùn:

“Phân phất mưa phùn xâm xẩm mày”.

Câu thơ mở đầu là một sáng tạo thú vị của nhà thơ. Đáng lẽ ra, nhà thơ phải viết là "Mưa phùn xâm xẩm bay phân phất" nhưng tác giả đã đảo cụm từ "phân phất" lên đầu câu nhấn mạnh một cơn mưa phùn kéo dài. Mưa phùn là dấu hiệu của mùa xuân, đặc trưng riêng chỉ mùa xuân mới có. Mưa phùn ngày xuân như liều thuốc quý giá giúp cây cối đâm chồi nảy lộc, muôn hoa bừng tỉnh và khoe sắc sau những ngày trời lạnh giá, u ám.

Xuất hiện dưới bức tranh mưa xuân ấy là hình ảnh con người hiện lên với công việc lao động thân thương, gần gũi:

“Mặc manh áo ngắn giục trâu cày

Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó

Bà lão chiều còn xới đậu đây”.

Hình ảnh con người hiện lên với "manh áo ngắn”, cho thấy được cuộc sống vất vả, nghèo khó nơi thôn quê. Từ thời xa xưa, ông cha ta thường nói rằng: "Con trâu là đầu cơ nghiệp” và hình ảnh con trâu đi vào thơ ca, ca dao dân ca rất phong phú. Câu thơ hiện lên hình ảnh người lao động với con trâu. Công việc ở đây là giục trâu cày. Những chú trâu giúp người nông dân xới những mảnh đất xốp hơn. Hình ảnh "manh áo ngắn” và hình ảnh con trâu gợi cho người đọc những nét giản dị  gần gũi nơi thôn quê, cho thấy được cuộc sống lam lũ, vất vả của người dân vùng thôn quê. Hai câu thơ tiếp, nhà thơ miêu tả chi tiết công việc của nàng dâu và bà lão. Thời gian được nhắc đến là "sớm” và "chiều”, đó là khoảng thời gian bắt đầu và kết thúc của một ngày. Ấy thế mà hiện lên hình ảnh nàng dâu và bà lão vẫn cặm cụi làm việc. Công việc của nàng dâu là gieo dưa, và bà cụ lão xới đậu. Dưới cơn mưa xuân lất phất, hình ảnh con người trong công việc càng thêm đáng yêu, đáng kính, đáng trân trọng hơn bao giờ hết, con người chịu thương chịu khó. Hơn nữa, mưa xuân còn làm cho mọi vật trở nên sinh sôi, nảy nở:

“Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn

Khoai trong đám cỏ đã xanh cây”

Nhà thơ đã miêu tả cảnh vật như khoác trên mình chiếc áo mới "đang nảy ngọn, đã xanh cây”. Mùa xuân về, đất trời lũ lượt thay áo mới. Bao nhiêu nhựa sống, bao nhiêu say mê đã được ấp ủ dưới lớp vỏ xơ xác của mùa đông, nay được bung tỏa hết, cho thấy được sự trù phú của cảnh vật.

Hai câu thơ cuối đã bộc lộ tình cảm của thi sĩ, đó là tình yêu thương, gắn bó với quê hương:

“Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú

Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây”.

Thú điền viên là thú vui nơi thôn dã, ruộng vườn, thường để chỉ những vị quan lui về ở ẩn. Nguyễn Bảo là vị quan có tấm lòng yêu nước thương dân. Bài thơ ra đời trong bối cảnh thi sĩ lui về quê ở ẩn, và dạy học, bà con khắp xứ gần xa đều tìm đến xin cho con cháu mình theo học. Vì vậy mà ông có điều kiện gần gũi với nhân dân. Mỗi mỗi tứ thơ của ông như một bức tranh bình dị, chất phác mà vẫn ấm áp cái chân, tình yêu tha thiết những con người lao động. Nguyễn Bảo đã gửi gắm tấm lòng yêu quê tha thiết. Bức tranh quê hương với đường nét, màu sắc, âm thanh, có lúc giống như tranh thủy mặc, có lúc lại rất sống động như chính cuộc sống đang hiện ra trước mắt người đọc.

Bài thơ là một sáng tạo của thi nhân. Bức tranh quê hương vô cùng giản dị nhưng thi sĩ vẽ lên bằng cách mượn ngòi bút của văn chương đã phát họa nó đẹp hơn bao giờ, thấy được sự gần gũi hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật cùng với cách ngắt nhịp khéo léo. Nhà thơ đã sử dụng biệp pháp đảo ngữ, nhân hóa, phép đối,.. một cách tài tình. Qua đó, nhà thơ muốn gửi đến đôc giả một thông điệp vô cùng sâu sắc. Thi sĩ muốn nhấn mạnh sự khổ công và sự kiên nhẫn trong cuộc sống nông thôn. Dù cuộc sống khó khăn và vất vả, nhưng người dân nông thôn vẫn không ngại lao động để trồng trọt và chăm sóc cây cỏ. Bài thơ tôn vinh những nghĩa cử đơn giản nhưng ý nghĩa của con người nông thôn.

Nếu họa sĩ dùng màu sắc để vẽ tranh, nhà điêu khắc dùnh đường nét để khắc họa, nhạc sĩ dùng âm nhạc để nói lên nỗi lòng của mình, thì nhà văn dùng ngòi bút văn chương để tạo ra đứa con tinh thần của mình. Và bài thơ “Chiều xuân ở thôn Trừng Mại” là một khúc ca tuyệt vời của nhà thơ Nguyễn Bảo, để lại trong lòng người đọc biết bao dư âm.