Trịnh Minh Đạt

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trịnh Minh Đạt
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1 (0,5 điểm) Đối tượng trào phúng: Những học trò dốt.

Câu 2 (0,5 điểm) Thủ pháp trào phúng: Giễu nhại (qua các từ ngữ như: dắt díu, đòi, phường lòi tói).

Câu 3 (1,0 điểm) Sắc thái nghĩa của cụm từ “phường lòi tói” trong bài thơ:

– Nghĩa của từ “phường”: Nhóm người có một đặc điểm chung, thường tỏ ý khinh miệt.

– Nghĩa của từ “lòi tói”: Quá dốt và để lộ rõ vẻ dốt nát.

– Sự kết hợp từ ngữ này tạo nên giọng điệu chê bai, mỉa mai, khinh rẻ bọn học trò dốt. Một cách nói nhấn mạnh vào lũ học trò lộ rõ vẻ dốt nát, nhìn vào là nhận ra ngay, không thể che đậy, giấu giếm.

Câu 4 (1,0 điểm)

– Chủ đề của bài thơ: Phê phán những kẻ đã dốt lại còn hay khoe chữ.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ …

(Học sinh nêu được tối thiểu 02 căn cứ)

Câu 5 (1,0 điểm)

– Tình cảm, cảm xúc của tác giả được thể hiện trong bài thơ: Khinh bỉ và có phần tức giận vì thấy sự dốt nát và ngạo mạn của những kẻ mang danh học trò.

– Bằng chứng để làm rõ ý kiến:

+ Giọng điệu của tác giả được thể hiện qua một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ Nội dung của bài thơ.

+ …

Câu 6 (2,0 điểm)

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Học sinh cần trình bày một thông điệp được rút ra sau khi đọc bài thơ.

– Gợi ý:

+ Sống khiêm tốn, biết lắng nghe, không ngừng học hỏi.

+ Cố gắng học thực, nhận lấy kiến thức để mở mang đầu óc, nuôi dưỡng tâm hồn, không “cưỡi ngựa xem hoa” trong việc học.

Câu 1 (0.5 điểm) Thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường (xen lục ngôn).

Câu 2 (0.5 điểm) Đối tượng trào phúng trong bài thơ là chính tác giả (ta).

Câu 3 (1,0 điểm) Sắc thái nghĩa của từ “khoe” trong nhan đề “Khoe lười”:

– Nghĩa của từ “khoe”: cố ý làm cho người ta thấy, biết cái tốt đẹp, cái hay của mình, thường là bằng lời nói.

– Trường hợp nhan đề “Khoe lười” cho thấy tác giả cố tình chế giễu chính bản thân, muốn khoe ra cái xấu của mình cho mọi người cùng biết.

– Đây cũng là cách kết hợp từ ngữ tạo nên nghệ thuật trào phúng.

Câu 4 (1,0 điểm) 

– Chủ đề của bài thơ: Tiếng cười tự trào của tác giả về sự lười biếng của chính mình, nhưng qua đó cũng cho thấy thông điệp sâu sắc: con người nên biết cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi, sống thuận theo tự nhiên để đạt được sự hài hòa.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Từ ngữ

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Mạch cảm xúc trong văn bản

+…

(Học sinh nêu được tối thiểu 02 căn cứ)

Câu 5 (1,0 điểm) Tác dụng của việc kết hợp từ ngữ chỉ thời gian và từ ngữ miêu tả công việc nên làm trong đoạn thơ:

– Từ ngữ chỉ thời gian: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là bốn mùa trong năm, mỗi năm đều có sự lặp lại, tuần hoàn.

– Theo tác giả, mùa xuân là mùa ăn chơi, mùa cảnh sắc tươi đẹp nên phải tận hưởng; mùa hạ nóng bức nên lao động dễ mệt mỏi, kiệt sức; mùa thu mát mẻ chỉ phù hợp với ngâm thơ, vịnh cảnh; mùa đông lạnh lẽo cũng phù hợp với chuyện nghỉ ngơi.

--> Tác dụng: Giúp tác giả khoe sự lười biếng của bản thân cứ lặp đi lặp lại theo thời gian như một vòng tuần hoàn. Điều này cũng góp phần tạo nên sự trào phúng cho bài thơ. Bên cạnh đó, nhà thơ còn có hàm ý sâu xa: nên cần bằng giữa công việc và nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi cũng cần thiết để chuẩn bị cho tương lai.

Câu 6 (2,0 điểm) 

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Nêu được những giải pháp để loại bỏ thói quen trì hoãn.

– Gợi ý:

+ Đặt ra những mục tiêu phù hợp với bản thân và tạo động lực để đạt được nó bằng cách tự thưởng cho những thành quả của mình.

+ Ngắt kết nối với những gì khiến chúng ta mất tập trung.

+ Quản lí thời gian của bản thân.

Câu 1. (0.5 điểm)

Mâu thuẫn chính trong đoạn trích trên là xung đột giữa phần hồn thanh cao của Trương Ba và phần xác ham muốn vật chất của anh hàng thịt. Đây là mâu thuẫn giữa lí trí và bản năng trong con người đã tạo nên bi kịch.

Câu 2. (0.5 điểm)

Chủ đề của đoạn trích: Nỗi đau đớn của phần hồn Trương Ba khi phải tồn tại chung với xác anh hàng thịt và sức mạnh bản năng của con người.

(Chấp nhận những cách diễn đạt phù hợp khác)

Câu 3. (1.0 điểm)

Nghĩa của yếu tố Hán Việt “thuận”:

a. “thuận”: hòa hợp, đồng lòng, không có xích mích.

b. “thuận”: theo đúng chiều của chuyển động, vận động bình thường của sự vật.

Câu 4. (1.0 điểm)

– Học sinh chọn phân tích một số lời thoại có tác dụng trong việc thể hiện tính cách của nhân vật Trương Ba.

– Gợi ý:

+ Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u đui mù...

+ Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!

+ Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn..

--> Trương Ba là người luôn xem thường thân xác chỉ có ham muốn, dục vọng của anh hàng thịt. Ông là người ngay thẳng, mong muốn được sống nguyên vẹn, trong sạch.

+ Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.

--> Ông là người có học thức, cư xử nhẹ nhàng, ân cần nên luôn khinh ghét những kẻ thô bạo, không có văn hóa.

(Học sinh phân tích tối thiểu hai lời thoại bộc lộ tính cách nhân vật

Câu 5. (1.0 điểm)

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung:

+ Thể hiện được ý kiến của bản thân: Đồng tình hay phản đối với lập luận của phần xác anh hàng thịt trong đoạn trích.

+ Lí giải được lí do vì sao đồng tình hoặc phản đối.

Mỗi năm, trường em đều tổ chức các hoạt động xã hội để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Trong số đó, chuyến đi thiện nguyện đến mái ấm tình thương vào mùa hè năm ngoái đã để lại trong em nhiều suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc.

Sáng hôm đó, chúng em tập trung tại trường từ rất sớm, ai nấy đều háo hức với chuyến đi. Những món quà như gạo, mì, sách vở, quần áo được chuẩn bị cẩn thận từ trước. Sau hơn một giờ di chuyển, đoàn chúng em đến mái ấm – nơi đang cưu mang hàng chục em nhỏ mồ côi. Hình ảnh những đứa trẻ với ánh mắt trong veo nhưng đầy khát khao yêu thương khiến em không khỏi xúc động.

Chúng em nhanh chóng chia thành từng nhóm nhỏ để thực hiện công việc. Một số bạn phụ giúp các cô nấu ăn, nhóm khác dọn dẹp sân chơi, lau dọn phòng ở, còn em cùng vài bạn tổ chức trò chơi và phát quà cho các em nhỏ. Khi nhận những món quà đơn giản như tập vở hay bánh kẹo, các em đều vui mừng khôn xiết. Có em còn ôm chặt lấy chúng em, ríu rít kể chuyện mà ánh mắt tràn đầy hạnh phúc.

Một khoảnh khắc đặc biệt đã khiến em ghi nhớ mãi. Đó là khi em trò chuyện với một bé gái khoảng tám tuổi tên Linh. Bé kể rằng từ nhỏ đã không biết mặt bố mẹ, nhưng nhờ tình thương của các cô trong mái ấm mà bé vẫn được đi học, được yêu thương. Dù hoàn cảnh khó khăn, Linh vẫn luôn lạc quan, mơ ước trở thành cô giáo để giúp đỡ những trẻ em bất hạnh khác. Lời tâm sự ấy khiến em cảm thấy khâm phục và xúc động vô cùng. So với Linh, em thấy mình thật may mắn khi có gia đình đầy đủ, được yêu thương và chăm sóc. Điều đó khiến em tự nhủ rằng mình cần phải biết trân trọng cuộc sống hơn.

Chuyến đi kết thúc, nhưng những hình ảnh về mái ấm và những đứa trẻ ở đó vẫn in sâu trong tâm trí em. Em nhận ra rằng, đôi khi chỉ một hành động nhỏ cũng có thể mang lại niềm vui lớn cho người khác. Từ đó, em quyết tâm sẽ tham gia nhiều hơn các hoạt động tình nguyện để có thể góp phần giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.

Hoạt động thiện nguyện ấy không chỉ là một trải nghiệm ý nghĩa mà còn là bài học quý giá về tình yêu thương và sự sẻ chia. Nó giúp em hiểu rằng, cuộc sống này đẹp hơn khi con người biết yêu thương, giúp đỡ nhau. Em sẽ luôn ghi nhớ cảm xúc ấy và cố gắng sống tốt hơn, có ích hơn cho cộng đồng.

Bài thơ "Nam quốc sơn hà" là một tác phẩm nổi bật trong lịch sử văn học Việt Nam, được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Bài thơ không chỉ thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt mà còn khẳng định chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của đất nước.

Trước hết, bài thơ có nội dung sâu sắc, mạnh mẽ, thể hiện rõ tinh thần dân tộc. Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã khẳng định chủ quyền của nước Nam:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư."

Câu thơ mang ý nghĩa rằng nước Nam là của vua Nam, sự phân định ranh giới này đã được ghi rõ trong sách trời. Điều này thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự chính danh và hợp lý của chủ quyền dân tộc. Đây không chỉ là một lời khẳng định mà còn là một lời cảnh báo đanh thép gửi đến kẻ thù.

Hai câu thơ tiếp theo tiếp tục nhấn mạnh sự bất khả xâm phạm của lãnh thổ nước Nam:

"Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm? Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!"

Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ mang tính thách thức, khẳng định rằng bất kỳ kẻ nào xâm phạm bờ cõi nước Nam đều sẽ chuốc lấy thất bại. Đây là lời tuyên bố hùng hồn về sức mạnh và tinh thần kiên cường của dân tộc Việt Nam.

Về nghệ thuật, bài thơ có cấu trúc ngắn gọn nhưng súc tích, ý nghĩa mạnh mẽ. Giọng thơ hào hùng, dứt khoát, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như khẳng định, hỏi tu từ, nhấn mạnh tính hiển nhiên của chủ quyền dân tộc. Nhịp thơ dồn dập, thể hiện sự cương quyết và khí thế của quân đội Đại Việt trước kẻ thù xâm lược.

Bài thơ "Nam quốc sơn hà" không chỉ có giá trị về mặt văn học mà còn mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Đây là biểu tượng cho lòng yêu nước, tinh thần tự cường của dân tộc Việt Nam, khẳng định ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Cho đến ngày nay, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị và là nguồn động viên to lớn cho lòng tự hào dân tộc của mỗi người Việt Nam.

 

Mỗi năm, trường em đều tổ chức các hoạt động xã hội để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Trong số đó, chuyến đi thiện nguyện đến mái ấm tình thương vào mùa hè năm ngoái đã để lại trong em nhiều suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc.

Sáng hôm đó, chúng em tập trung tại trường từ rất sớm, ai nấy đều háo hức với chuyến đi. Những món quà như gạo, mì, sách vở, quần áo được chuẩn bị cẩn thận từ trước. Sau hơn một giờ di chuyển, đoàn chúng em đến mái ấm – nơi đang cưu mang hàng chục em nhỏ mồ côi. Hình ảnh những đứa trẻ với ánh mắt trong veo nhưng đầy khát khao yêu thương khiến em không khỏi xúc động.

Chúng em nhanh chóng chia thành từng nhóm nhỏ để thực hiện công việc. Một số bạn phụ giúp các cô nấu ăn, nhóm khác dọn dẹp sân chơi, lau dọn phòng ở, còn em cùng vài bạn tổ chức trò chơi và phát quà cho các em nhỏ. Khi nhận những món quà đơn giản như tập vở hay bánh kẹo, các em đều vui mừng khôn xiết. Có em còn ôm chặt lấy chúng em, ríu rít kể chuyện mà ánh mắt tràn đầy hạnh phúc.

Một khoảnh khắc đặc biệt đã khiến em ghi nhớ mãi. Đó là khi em trò chuyện với một bé gái khoảng tám tuổi tên Linh. Bé kể rằng từ nhỏ đã không biết mặt bố mẹ, nhưng nhờ tình thương của các cô trong mái ấm mà bé vẫn được đi học, được yêu thương. Dù hoàn cảnh khó khăn, Linh vẫn luôn lạc quan, mơ ước trở thành cô giáo để giúp đỡ những trẻ em bất hạnh khác. Lời tâm sự ấy khiến em cảm thấy khâm phục và xúc động vô cùng. So với Linh, em thấy mình thật may mắn khi có gia đình đầy đủ, được yêu thương và chăm sóc. Điều đó khiến em tự nhủ rằng mình cần phải biết trân trọng cuộc sống hơn.

Chuyến đi kết thúc, nhưng những hình ảnh về mái ấm và những đứa trẻ ở đó vẫn in sâu trong tâm trí em. Em nhận ra rằng, đôi khi chỉ một hành động nhỏ cũng có thể mang lại niềm vui lớn cho người khác. Từ đó, em quyết tâm sẽ tham gia nhiều hơn các hoạt động tình nguyện để có thể góp phần giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.

Hoạt động thiện nguyện ấy không chỉ là một trải nghiệm ý nghĩa mà còn là bài học quý giá về tình yêu thương và sự sẻ chia. Nó giúp em hiểu rằng, cuộc sống này đẹp hơn khi con người biết yêu thương, giúp đỡ nhau. Em sẽ luôn ghi nhớ cảm xúc ấy và cố gắng sống tốt hơn, có ích hơn cho cộng đồng.
 

Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Ông nổi tiếng với những tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của tầng lớp nhân dân lao động dưới chế độ phong kiến và thực dân. Truyện ngắn "Bà lái đò" là một trong những tác phẩm tiêu biểu, mang đậm phong cách trào phúng nhưng cũng đầy tính nhân văn của ông.

Truyện ngắn "Bà lái đò" kể về cuộc đời của một người phụ nữ nghèo khổ, làm nghề lái đò trên sông. Bà là một người lao động lam lũ, vất vả nhưng lại có tấm lòng nhân hậu và đáng kính. Tác phẩm không chỉ khắc họa hình ảnh một người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội xưa mà còn lên án những bất công, sự chà đạp của tầng lớp thống trị đối với những người dân lao động nghèo khổ.

Nhân vật bà lái đò hiện lên với hình ảnh một người phụ nữ nghèo nhưng đầy nghị lực. Bà làm nghề chèo đò để kiếm sống qua ngày, dù công việc nặng nhọc, vất vả. Nhưng cuộc đời của bà không chỉ chịu cảnh nghèo khó mà còn bị vùi dập bởi xã hội bất công. Cuộc đời bà trở thành minh chứng cho số phận éo le của những con người cùng khổ trong xã hội phong kiến.

Bà lái đò còn là một con người có nhân cách đẹp. Mặc dù bị bóc lột, bị coi thường, nhưng bà vẫn giữ vững phẩm giá của mình. Tấm lòng lương thiện của bà thể hiện qua những hành động giúp đỡ người khác, dù bản thân bà cũng không khá giả gì. Đây chính là giá trị nhân văn sâu sắc mà Nguyễn Công Hoan gửi gắm trong tác phẩm: sự trân trọng và ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động.

Nghệ thuật trào phúng là một nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Nguyễn Công Hoan, và trong "Bà lái đò", điều này cũng được thể hiện rõ. Nhà văn sử dụng giọng điệu châm biếm, hài hước để tố cáo những bất công xã hội, đồng thời bộc lộ sự cảm thông sâu sắc với những người nghèo khổ. Cách xây dựng tình huống truyện đầy kịch tính, lối kể chuyện giản dị nhưng sâu sắc đã làm nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm.

Qua truyện ngắn "Bà lái đò", Nguyễn Công Hoan không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông đứng về phía những con người nhỏ bé, bất hạnh trong xã hội, vạch trần những bất công, đồng thời khẳng định giá trị và phẩm chất cao đẹp của họ. Tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm về số phận con người và ý nghĩa của sự đấu tranh cho công bằng và lẽ phải.

Tóm lại, "Bà lái đò" không chỉ là một truyện ngắn hay về nội dung mà còn có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Công Hoan đã thành công trong việc tái hiện số phận của những con người nghèo khổ, đồng thời gửi gắm thông điệp nhân văn sâu sắc. Đây là một tác phẩm đáng đọc, giúp người đọc hiểu hơn về cuộc sống của những người lao động trong xã hội phong kiến xưa và trân trọng hơn những giá trị tốt đẹp của con người.
 

Câu 1. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

Câu 2. Hình ảnh người nông dân được thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh: chân thua, thuế quan Tây, trả nợ, nửa công đứa ở, nửa thuê bò, sớm trưa dưa muối, chợ búa trầu chè chẳng dám mua, cần kiệm,…

(Học sinh cần liệt kê được ít nhất 4 từ ngữ, hình ảnh phù hợp)

Câu 3.

Học sinh trình bày cách hiểu về hai dòng thơ.

– Hoàn cảnh sống thiếu thốn, nghèo khó, phải tiết kiệm, chắt chiu của người nông dân.

– Qua đó, cho thấy sự đồng cảm, thương yêu của tác giả dành cho những người nông dân nghèo khổ.

Câu 4.

– Biện pháp: Câu hỏi tu từ.

– Tác dụng:

+ Gợi lên cuộc sống cần kiệm, khó khăn của người nông dân.

+ Thể hiện sự xót xa, đồng cảm, thấu hiểu của tác giả dành cho những người nông dân.

+ Thể hiện nỗi bất lực, mệt mỏi của chính tác giả khi chứng kiến cảnh sống thiếu thốn, vất vả của người dân.

Câu 5. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình cảm yêu thương, sự đồng cảm của nhà thơ với cuộc sống vất vả, nghèo khổ của người nông dân trong xã hội cũ.

Câu 6.

Học sinh viết đoạn văn trình bày quan điểm về giá trị của tình người trong cuộc sống.

– Đảm bảo hình thức của đoạn văn.

– Trình bày được những giá trị của tình người trong cuộc sống, ví dụ:

+ Tình người trong cuộc sống đó là sự yêu thương, chia sẻ, lắng nghe, giúp đỡ nhau.

+ Tình người sẽ tạo nên một xã hội đầy yêu thương, bao dung. Từ đó, không có mâu thuẫn, chiến tranh, ai ai cũng được sống trong yên ấm, hòa bình.

+ Tình người khiến chúng ta sống tích cực, có niềm tin vào cuộc đời.

+…

- Quê hương chính là nơi chôn nhau cắt rốn của ta, là nơi nuôi ta lớn lên với biết bao kỉ niệm.

- Quê hương dạy ta lớn khôn và trưởng thành dần từ những ngây thơ, vụng dại của ngày bé. Quê hương cho ta những năm tháng tuổi thơ tuyệt vời.

- Quê hương là nơi có tổ tiên, cha mẹ, anh em, có tình thân luôn yêu thương, gắn bó,…

 Đảo ngữ: làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ.

- Phép đối:  

  • Ngàn mai>< dặm liễu.

  • Gió cuốn>< sương sa.

  • Chim bay mỏi ><khách bước dồn.

+ Tăng tính gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt; tạo nhịp điệu và thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình.

+ Gợi tả không gian rộng lớn, hoang vắng và nẻo đường tha hương dài ngàn dặm mà tác giả phải đi qua. Quang cảnh quá đỗi rộng lớn, lạnh lẽo đối lập với sự nhỏ bé, liêu xiêu của thi nhân.

+ Gợi lên trong lòng thi sĩ sự cô đơn và nỗi nhớ sầu muộn khi phải rời xa quê hương.