Trúc Quỳnh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trúc Quỳnh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

+ Những tòa nhà cao tầng mọc lên, cản trở những ánh nhìn hướng về bầu trời, khiến ta có cảm giác chật chội.

+ Những khu du lịch rào kín lại, ngăn cách đường dẫn tới bờ biển, khu rừng,… buộc họ phải trả tiền mới được tới đó vui chơi.

+ Tất cả những điều ấy vốn là món quà mà tự nhiên ban tặng cho con người. Là món quà nhiều người trân trọng. Ấy vậy mà họ buộc phải chấp nhận việc bị thu phí, bị tước đoạt hay bị o ép mới có thể tận hưởng thứ vốn thuộc về mình.

- Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: biện pháp tu từ liệt kê.

- Tác dụng của biện pháo tu từ liệt kê: nhấn mạnh những kỉ niệm vui vẻ, hạnh phúc của đứa trẻ áo rách trước khi khu resort xuất hiện.

a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài: Nghị luận văn học.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích truyện.

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:

– Xác định được các ý chính của bài viết.

– Sắp xếp được các ý hợp lí theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận:

* Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Công Hoan và tác phẩm “Bà lái đò” (nhan đề, đề tài, thể loại,...); nêu ý kiến khái quát về tác phẩm.

* Thân bài:

+ Phân tích nội dung và chủ đề của tác phẩm:

  • Nêu ngắn gọn nội dung chính của tác phẩm: Tác phẩm kể về một người phụ nữ lái đò có lòng yêu nước sâu sắc. Một lần, có một nhóm người trong đó có cả người nước ngoài muốn sang sông, bà đã lấy dao chọc thủng thuyền hòng giết chết những người này vì nghĩ họ là người Pháp. Mẹ con bà may mắn đã được họ cứu thoát và cho biết họ là những người châu Âu giúp chính phủ ta đánh Pháp.
  • Nêu được chủ đề chính của tác phẩm: Lòng yêu nước. Chủ đề của tác phẩm xoay quanh những suy nghĩ và hành động dứt khoát, dũng cảm của bà lái đò; để giết giặc sẵn sàng phá hủy tài sản duy nhất của gia đình (chiếc đò), không màng đến cả tính mạng của con và bản thân.

+ Chỉ ra và phân tích được những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật:

  • Cốt truyện: Đơn tuyến, mạch truyện đơn giản.
  • Xây dựng tình huống truyện đặc sắc giúp nhân vật bộc lộ được phẩm chất tốt đẹp của mình.
  • Nhân vật: Được khắc họa chủ yếu qua hành động và lời nói.
  • Ngôi kể: Truyện được kể ở ngôi thứ nhất, người kể chuyện là người trong cuộc, chứng kiến toàn bộ diễn biến sự việc khiến cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực; giúp người kể có thể bộc lộ được suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
  • Ngôn ngữ: Truyện sử dụng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, phù hợp với mỗi nhân vật và với ngôn ngữ của giai đoạn lịch sử lúc đó (thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp).

* Kết bài: Nêu được ý nghĩa, giá trị của tác phẩm truyện.

d. Viết bài văn đảm bảo các yêu cầu sau:

– Lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận.

– Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các ý.

– Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: Lí lẽ xác đáng; bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và bằng chứng.

đ. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết trong bài văn.

e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.

Câu 1. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

Câu 2. Hình ảnh người nông dân được thể hiện qua những từ ngữ, hình ảnh: chân thua, thuế quan Tây, trả nợ, nửa công đứa ở, nửa thuê bò, sớm trưa dưa muối, chợ búa trầu chè chẳng dám mua, cần kiệm,…

Câu 3.

– Hoàn cảnh sống thiếu thốn, nghèo khó, phải tiết kiệm, chắt chiu của người nông dân.

– Qua đó, cho thấy sự đồng cảm, thương yêu của tác giả dành cho những người nông dân nghèo khổ.

Câu 4.

– Biện pháp: Câu hỏi tu từ.

– Tác dụng:

+ Gợi lên cuộc sống cần kiệm, khó khăn của người nông dân.

+ Thể hiện sự xót xa, đồng cảm, thấu hiểu của tác giả dành cho những người nông dân.

+ Thể hiện nỗi bất lực, mệt mỏi của chính tác giả khi chứng kiến cảnh sống thiếu thốn, vất vả của người dân.

Câu 5. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình cảm yêu thương, sự đồng cảm của nhà thơ với cuộc sống vất vả, nghèo khổ của người nông dân trong xã hội cũ.

Câu 6.

– Đảm bảo hình thức của đoạn văn.

– Trình bày được những giá trị của tình người trong cuộc sống, ví dụ:

+ Tình người trong cuộc sống đó là sự yêu thương, chia sẻ, lắng nghe, giúp đỡ nhau.

+ Tình người sẽ tạo nên một xã hội đầy yêu thương, bao dung. Từ đó, không có mâu thuẫn, chiến tranh, ai ai cũng được sống trong yên ấm, hòa bình.

+ Tình người khiến chúng ta sống tích cực, có niềm tin vào cuộc đời.

Trong một năm có 12 tháng, nhưng dường như lúc nào em cũng nhớ, cũng mong chờ về Tết.

Tết là một danh từ chứa đựng cả một bầu trời những màu sắc và cảm xúc tuyệt vời. Khi những cây thông noel dần được gỡ xuống, nhường chỗ cho cành đào, cành quất, thì đó là tín hiệu của cái Tết đang về. Cả thiên nhiên lẫn con người đều ríu rít, vội vã thay áo mới để đón xuân về.

Trên những hàng cây, vạt cỏ ven đường, đâu đâu cũng là những chồi non lá biếc mới trổ. Chúng mong manh mà kiên cường, mặc gió rét vẫn vươn lên mơn mởn. Bầu trời trên cao thì chợt lùi tít lên cao, rộng hơn hẳn. Thấy trời đã bớt chật, nắng cũng ào xuống mặt đất như dòng thác. Sau bao ngày mùa đông ảm đạm, nắng đã vàng ươm, mây đã xanh ngắt, gọi bầy chim én trở về chao liệng, gợi cái Tết đã đến bên thềm.

Biết Tết đến, xuân về, nhà nhà người người cũng háo hức hẳn. Sau một đêm, các cửa hàng, con phố rực rỡ hẳn với những hình dán trang trí, cờ, biểu ngữ chúc mừng năm mới cùng bao câu chúc ý nghĩa. Sắc đỏ sắc vàng may mắn chiếm lĩnh toàn bộ không gian. Những mặt hàng đặc trưng của Tết như hoa mai, hoa đào, cây quất rồi bao lì xì, bánh mứt kẹo được bày bán khắp nơi. Những mặt hàng thông thường cũng đua nhau mặc áo mới, để hưởng ké cái bầu không khí nô nức ngoài kia. Đi đâu cũng nghe văng vẳng những bài nhạc xuân nghe mãi chẳng thấy chán. Rõ là năm nào cũng được nghe, mà sao chỉ thấy phấn chấn, háo hức hơn mà thôi.

Tết đến, ai cũng vui tươi hơn, cởi mở hơn. Từ chuyện sắm sửa, dọn dẹp nhà cửa. Đến cách họ chào nhau, chúc tụng nhau nhừng điều tốt đẹp. Đó là sức mạnh của Tết đấy. Nhưng em thích nhất, vẫn là những giây phút đoàn viên của gia đình. Được cùng bố mẹ, anh chị dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng thật đẹp, rồi đi chợ mua sắm, gói bánh chưng, đón giao thừa. Sự ấm áp, sum vầy ấy mới chính là ma lực lớn nhất của Tết, khiến ai ai cũng mong chờ, ngóng đợi suốt cả năm.

Có lẽ, chính vì thế, mà nhà văn Vũ Bằng mới tự tin khẳng định rằng “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.”

- Quê hương chính là nơi chôn nhau cắt rốn của ta, là nơi nuôi ta lớn lên với biết bao kỉ niệm.

- Quê hương dạy ta lớn khôn và trưởng thành dần từ những ngây thơ, vụng dại của ngày bé. Quê hương cho ta những năm tháng tuổi thơ tuyệt vời.

- Quê hương là nơi có tổ tiên, cha mẹ, anh em, có tình thân luôn yêu thương, gắn bó,…

- Đảo ngữ: làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ.

- Phép đối:  

  • Ngàn mai>< dặm liễu.
  • Gió cuốn>< sương sa.
  • Chim bay mỏi ><khách bước dồn.

+ Tăng tính gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt; tạo nhịp điệu và thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình.

+ Gợi tả không gian rộng lớn, hoang vắng và nẻo đường tha hương dài ngàn dặm mà tác giả phải đi qua. Quang cảnh quá đỗi rộng lớn, lạnh lẽo đối lập với sự nhỏ bé, liêu xiêu của thi nhân.

+ Gợi lên trong lòng thi sĩ sự cô đơn và nỗi nhớ sầu muộn khi phải rời xa quê hương.

Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là ông vua anh hùng - thi sĩ của Đại Việt trong thế kỷ XIII. Thông minh, học rộng, có tài thao lược và rất tài hoa.

Tên tuổi nhà thơ gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược.

Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất "phát nghiệp đế vương" của nhà Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung" và "Thiên Trường vãn vọng".

Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa không có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.

"Thiên Trường vãn vọng" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác, bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:

"Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền"

Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.

Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ "thôn Hậu thôn tiền" và "bán vô bán hữu" liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa, xóm thôn "trước xóm sau thôn" phủ mờ khói như càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng.

Chỉ bằng 3 nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương nơi yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh "đạm tự yên" (mờ nhạt như không là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm):

"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên

(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).

Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy gợi thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:

"Mục đồng địch lí ngưu quy tận"
Bạch lộ song song phi hạ điền

(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).

Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ "Hạnh Thiên Trường hành cung" (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):

"Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua"

Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ''Hạnh Thiên Trường hành cung" là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài "Thiên Trường vãn vọng" là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết "Thiên Trường vãn vọng" sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.

Bài tứ tuyệt "Thiên Trường vãn vọng" là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế!

+ Không nên chê bai, xem thường ngoại hình của người khác.

+ Biết yêu thương chính bản thân mình, trân trọng vẻ đẹp của mình.

+ Biết cách cư xử, sử dụng lời nói sao cho hay, đúng hoàn cảnh, thể hiện sự tôn trọng người khác.

- Mọi người sinh ra ai cũng mong muốn mình có ngoại hình xinh đẹp, ưa nhìn, và bậc phụ huynh nào cũng mong muốn con mình có ngoại hình đẹp, không ai muốn mình xấu xí. Vì vậy, không nên cười cợt, phán xét ngoại hình của người khác.