Trúc Quỳnh

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trúc Quỳnh
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Diện tích xung quanh của phần chụp đèn là:

\(S_{x q} = \frac{1}{2} . C . d = \frac{1}{2} . \left(\right. 4.20 \left.\right) . 22 , 4 = 896 \left(\right.\)cm\(^{2} \left.\right)\)

a) \(5 x^{2} + 10 x y - 4 x - 8 y\)

=(5x2+10xy)−(4x+8y)

\(= 5 x \left(\right. x + 2 y \left.\right) - 4 \left(\right. x + 2 y \left.\right)\)

\(= \left(\right. 5 x - 4 \left.\right) \left(\right. x + 2 y \left.\right)\).

b) \(4 x^{2} + 4 x - y^{2} + 1\)

\(= \left(\right. \left(\right. 2 x \left.\right)^{2} + 2.2 x + 1 \left.\right) - y^{2}\)

\(= \left(\right. 2 x + 1 \left.\right)^{2} - y^{2}\)

\(= \left(\right. 2 x + 1 - y \left.\right) \left(\right. 2 x + 1 + y \left.\right)\)

\(= \left(\right. 2 x - y + 1 \left.\right) \left(\right. 2 x + y + 1 \left.\right)\).

a) \(A=x(2x-3)+2x^2(x-2)-2x(x^2-x+1)+\frac{(5x^2-5x)}{x}\)

\(A=2x2-3x+2x3-4x2-2x3+2x2-2x+5x-5\)

\(A=-5\)

Vậy \(A\) không phụ thuộc vào giá trị của biến.

\(b)(1-x)(1+x+x2)+x(x2-5)=11\)

\(1−x 3 +x 3 −5x=11\)

\(−5x=10\)

\(x=-2\)

Vậy \(x = − 2 x=−2.\)

a) Ta có \(A+B=3x^2\) \(-10xy-4\)

b) Ta có \(C+A-B=0\)

Suy ra \(C=B-A\) \(=x^2+2y^2-4xy-6\)

c) Khi \(x=2,y=\frac{-1}{2}\) thì \(C=2^2+2\times(\frac{-1}{2})^2-4\times2\times(\frac{-1}{2})-6=\frac52\)

Trường học đã mang lại cho tôi nhiều kỉ niệm. Hình ảnh về cô giáo - người đã dạy tôi nắn nót từng chữ. Đôi tay của cô nắm chặt tay tôi để rèn chữ. Bàn tay cô ấm áp làm sao và cô lại còn tập cho chúng tôi múa hát. Hay những kỉ niệm đẹp lúc ra chơi được cùng các bạn chơi đủ các trò, nào là: chơi đuổi bắt, nhảy dây, chơi cầu… Nhưng ấn tượng sâu nhất đối với tôi đó là trò chơi bịt mắt bắt dê. Hôm ấy vào giờ ra chơi, Lan rủ các bạn trong lớp cùng nhau chơi. Đông quá các bạn phải oẳn tù tì xem ai bắt, cuối cùng là Nam bắt. Lan dùng khăn quàng của mình để bịt mắt Nam lại. Chúng tôi vừa hát vừa chạy xung quanh Nam. Bài hát kết thúc, tất cả phải đứng im một chỗ. Nam chạm vào một bạn, rồi đoán đó là Lan. Nhưng đến khi Nam bỏ khăn ra nhìn, hóa ra đó là bạn lớp khác. Lúc này hai người đều đỏ mặt còn các bạn cùng chơi thì bật cười. Bỗng dưng có một tiếng nói to: “Cho tôi chơi với!”. Đó chính là Thành, người bạn hay đùa nhất của lớp tôi. Bạn ấy từ trong lớp chạy ra và xung phong bắt. Lan dùng khăn bịt mắt Thành lại, các bạn bắt đầu trốn, Thành đứng giữa sân nhìn qua nhìn lại chẳng thấy gì cả, nhưng hình như bạn ấy đang nghe tiếng bước chân của Hiền. Hiền thấy thế liền chạy qua cột cờ và dừng chân lại, đứng nép một bên. Thành nhào tới bắt, ai ngờ Thành bắt dính cột cờ, cả lớp cười lăn lộn, Thành cũng ôm mặt cười. Tiếng trống tùng tùng báo hiệu giờ vào học, thế là giờ ra chơi đã hết, vào lớp các bạn đều dùng tập,  sách để quạt cho mát. Đó là một kỷ niệm sâu sắc nhất với tôi dưới mái trường này.

Câu 1 Đối tượng trào phúng: Những học trò dốt.

Câu 2 Thủ pháp trào phúng: Giễu nhại (qua các từ ngữ như: dắt díu, đòi, phường lòi tói).

Câu 3 Sắc thái nghĩa của cụm từ “phường lòi tói” trong bài thơ:

– Nghĩa của từ “phường”: Nhóm người có một đặc điểm chung, thường tỏ ý khinh miệt.

– Nghĩa của từ “lòi tói”: Quá dốt và để lộ rõ vẻ dốt nát.

– Sự kết hợp từ ngữ này tạo nên giọng điệu chê bai, mỉa mai, khinh rẻ bọn học trò dốt. Một cách nói nhấn mạnh vào lũ học trò lộ rõ vẻ dốt nát, nhìn vào là nhận ra ngay, không thể che đậy, giấu giếm.

Câu 4

– Chủ đề của bài thơ: Phê phán những kẻ đã dốt lại còn hay khoe chữ.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

Câu 5

– Tình cảm, cảm xúc của tác giả được thể hiện trong bài thơ: Khinh bỉ và có phần tức giận vì thấy sự dốt nát và ngạo mạn của những kẻ mang danh học trò.

– Bằng chứng để làm rõ ý kiến:

+ Giọng điệu của tác giả được thể hiện qua một số từ ngữ: dắt díu, đòi, phường lòi tói,…

+ Nội dung của bài thơ.

+ …

Câu 6

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Học sinh cần trình bày một thông điệp được rút ra sau khi đọc bài thơ.

– Gợi ý:

+ Sống khiêm tốn, biết lắng nghe, không ngừng học hỏi.

+ Cố gắng học thực, nhận lấy kiến thức để mở mang đầu óc, nuôi dưỡng tâm hồn, không “cưỡi ngựa xem hoa” trong việc học.

+ …

Loài người, một sinh thể được cấu tạo từ hàng ngàn vật chất trong vũ trụ, là bậc tiến hoá cao nhất, có đầy đủ những giác quan, cảm xúc và trí tuệ. Nguồn gốc của loài người là một vấn đề mà bất kì một ai, một lĩnh vực nào cũng đều muốn tường tận hiểu rõ. Mỗi một lĩnh vực đều có những khái niệm riêng để lí giải về nguồn gốc hình thành đất trời, con người bắt đầu xuất hiện trên cõi đời này với hình hài như thế nào, trải qua những gì để có được “loài người” như hiện nay. Triết học, khoa học, … đều đưa ra những lí lẽ để lí giải những thắc mắc ấy như thuyết tiến hoá, hay phần xác và phần hồn được sinh ra từ tư tưởng của triết học, … .Từ xa xưa, tổ tiên ta đã có những hiểu biết và quan niệm về các vị thần, họ cho rằng đất, trời, nước, con người, loài vật đều do một tay các vị thần tạo ra. Chính vì vậy ở kho tàng văn học, những giai thoại, ghi chép về các vị thần trong các tác phẩm thần thoại nhiều vô số kể, trong đó có thể kể đến Thần trụ trời, vị thần sinh ra bởi trí tưởng tượng của con người thời cổ đại với nhiều công lao to lớn trong quá trình dựng đất dựng trời. Những giai thoại lưu truyền ấy như trở thành một phần không thể thiếu trong công cuộc đi tìm về nguồn gốc và lịch sử tạo dựng thế giới. Không phải vì những điều như vậy mà nó được lưu truyền tới ngày hôm nay, đó cũng là một trong những tri thức ban đầu để gợi mở nên vũ trụ đa dạng hoá về bề dày của nhân loại sau này.

Thần thoại là một trong những thể loại văn học dân gian, có những giai thoại được truyền miệng, cũng có những giai thoại được ghi chép lại, nhưng với thể loại này được ghi chép lại rất muộn nên có rất ít những tác phẩm viết về thần thoại ở trên giấy được lưu truyền cho đến ngày nay. Thần thoại thường kể, viết về truyền thuyết các vị thần, những nhân vật văn hoá, những người anh hùng, đào sâu vào hành động và đóng góp của các nhân vật ấy đối với quá trình phát triển và hoàn thiện thế giới loài người, những nhân vật ấy cũng là một phần trong các giá trị tinh thần của con người thời bấy giờ, chính họ đã nuôi dưỡng những gì đơn thuần nhất bên trong suy nghĩ và đời sống tinh thần của loài người, vì vậy nhân vật thần thoại không chỉ sống trong các giai thoại viết về họ mà còn hiện hữu trong đời sống tinh thần, đó là niềm tin của người Việt cổ vào những kiến thức sơ khai thuở hồng hoang. Kho tàng các thể loại văn học đồ sộ của nên văn hiến ngàn năm nước Việt có vô vàn các thể loại khác nhau, nhưng mỗi thể loại đều có cho mình một màu sắc riêng để phân biệt với các thể loại khác. Điều làm nên sự khác biệt của thần thoại là khoảng không gian và thời gian trong tác phẩm, bên cạnh đó là nét đặc biệt đến từ các nhân vật được đề cập, không gian và thời gian trong các tác phẩm thần thoại đều là ở những lúc vũ trụ đang trong quá trình tạo lập, cái lúc mà trời đất hoà vào làm một chưa phân định rõ ràng, mọi sinh vật chưa xuất hiện, tất cả chỉ là một mớ hỗn độn. Các nhân vật trong thần thoại là những vị thần, nhân vật văn hoá, anh hùng, có sức mạnh phi thường để thực hiện những việc phi thường. Và cốt truyện đầy những chi tiết kì ảo, lí thú nhưng dựa trên nhiều điều mà người sáng tác tiếp nhận và quan sát được trong quá trình tồn tại của họ, nó xoay quanh việc tạo lập nên trời và đất, tạo ra tổ tiên của loài người. Sự mạch lạc, logic trong những chi tiết và chuỗi các sự kiện của các tác phẩm thần thoại cũng là một điều khiến thể loại này có nét riêng, các chuỗi sự kiện đều gắn liền với một hiện tượng đời sống nào đó nên tạo vẻ chân thật và cuốn hút, dễ dàng để người nghe người đọc tiếp nhận trong quá trình thưởng thức nghệ thuật. Tác phẩm Thần trụ trời thuộc nhóm thần thoại về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên, ở đây nói về sự tò mò của con người thuở ấy về nguồn gốc phát triển của chính không gian họ sinh sống, họ đã giải thích quá trình vận động ấy theo lối tư duy của họ, chính là do Thần trụ trời chống trời đạp đất tạo nên. Thông qua tác phẩm này ta có thể thấy cách hiểu của người xưa rằng vì sao có trời và đất, vì sao đất lại gồ ghề, trời lại ở trên cao, … dù không thực tế so với tư duy hiện đại của chúng ta ngày nay những cũng là một trong những sự cố gắng, tìm tòi, sáng tạo trong các lĩnh vực.

Từ xưa đến nay người Việt ta có truyền thống luôn học hỏi, sáng tạo ra những điều mới mẻ để giải thích cho các hiện tượng xung quanh mình, chính vì vậy việc sáng tác ra những tác phẩm thần thoại để giải thích cho việc hình thành muôn loài, làm sao trời đất xuất hiện cũng đã thể hiện truyền thống quý báu ấy. Điều đó cho ta thấy sự cố gắng, phấn đấu trong chính những điều nhỏ nhặt từ suy nghĩ của họ, họ muốn làm chủ bản thân, làm chủ không gian sống, vì vậy họ tự tạo ra những vị thần của riêng mình, đó là tổ tiên của loài người, tổ tiên của loài người đã tạo ra con cháu của họ sau này, đó chính là những bước đầu chinh phục vũ trụ bao la của con người, dù chỉ là những điều hư cấu viễn vông. Một vũ trụ rộng lớn bao la như thế nhưng qua nét tư duy của con người nó đã được nhân cách hoá thành một vị thần, có đầy đủ quyền năng và sức mạnh, sự phi thường, là kẻ tạo lập trật tự cho một vũ trụ hỗn độn, ban cho loài người và các sinh vật khác hình hài, đặc điểm riêng biệt, từ đó dựa vào những mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau đề cùng tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Người Việt cổ chỉ tôn sùng vị thần mà do chính họ tạo nên, người đã giúp họ có được cuộc sống và lẽ tồn tại. Đất nước ta có nhiều dân tộc anh em, bởi vậy những vị thần được mỗi dân tộc sùng bái đều khác nhau, mỗi một vị thần của một dân tộc nào đó đều mang đậm bản sắc văn hoá của chính dân tộc đó. Nếu người Kinh có Thần trụ trời, người đội trời đạp đất phân chia lại vũ trụ, thì trong văn hoá của dân tộc khác cũng có những vị thần riêng của họ. Người Dao có Thần Bàn Cổ, người Ê-đê có Ai Điê, người Chăm có Tầm Thênh, người Mường có Bà Nhần và Ông Chống Trời, người Thái có Then Luông, người Mông có Dự Nhung, … Mỗi một dân tộc đều có những bậc thánh mà họ trung thành, tín ngưỡng, đó chính là cội nguồn của họ, dù chỉ là những lưu truyền hư cấu nhưng đó là một nét văn hoá đặc trưng cho truyền thống dân tộc.

Ngay từ đầu tác phẩm, Thần trụ trời xuất hiện với sự phi thường và đầy tính phóng đại . Dáng người thần khổng lồ, to hơn bất cứ thứ gì tồn tại trên đời này, thần ở trong mớ hỗn độn của vũ trụ kia đã lâu, đứng dậy đi một bước tưởng chừng như đi hết vùng này đến vùng khác. “Thần đứng dậy, ngẩng đầu đội trời lên, rồi tự mình đào đất, đập đá, đắp thành một cái cột vừa cao, vừa to để chống trời…Thần hì hục vừa đào vừa đắp, chẳng bao lâu, cột đá cứ cao dần và đẩy vòm trời lên mãi…”. Thế là trời đất lúc này được chia làm hai hần, mặt đất thì như một cái mâm vuông vức, trời thì tròn như cái bát úp lại, ở ngoài xa xa kia nơi trời và đất giao nhau gọi là đường chân trời. Cái vũ trụ lộn xộn bất phân kia nay nhờ công sức của Thần trụ trời mà rõ ràng, chính vị vậy con người xưa lấy làm biết ơn công lao trời bể ấy. Ta có thể thấy nét tương đồng của hình dáng trời và đất trong một số giai thoại khác, chẳng hạn như Sự tích bánh chưng bánh giầy. Vào đời vua Hùng, vì muốn tìm người kế vị trong số những hoàng tử của mình, Vua Hùng đã ra lệnh cho ai tìm được món ngon vật lạ để làm lễ cúng trời đất tổ tiên thì sẽ được truyền ngôi cho. Thấy vậy các hoàng tử thi nhau tìm đủ thứ của ngon vật lạ trên khắp đất nước này, riêng chỉ có hoàng tử Lang Liêu là chưa tìm được món gì ưng ý và đủ trịnh trọng để tế trời đất. Vì tính tình hiền lành lại chịu khó , nên được thần mách bảo lấy gạo làm bánh, một chiếc hình tròn một chiếc hình vuông để tượng trưng cho trời đất, nhân thì đặt bên trong bánh để tượng hình cho công ơn cha mẹ. Vậy là Lang Liêu được chọn làm người kế vị, từ đó về dau chiếc bánh vuông được gọi là bánh chưng, tượng trưng cho đất mẹ, bánh tròn gọi là bánh giầy, tượng trưng cho chúa trời, sau này mỗi ngày giỗ tổ bái tế đều sử dụng bánh chưng bánh giầy. Đó là một trong những truyền thuyết về hình dáng của đất và trời trong trí tưởng tượng của người Việt ta, là những giá trị tinh thần cao quý trong tinh hoa văn hoá đất Việt.

Khi trời đã cao và đã khô, thần lại phá cái cột chống trời đi, thần lấy đất đá vỡ vụn từ cái cột ném đi khắp nơi trên đất, những chỗ nào thần ném đá tới thì hình thành gò, thành đồi, nhấp nhô gồ ghề lên trên bề mặt của đất, đó là lí do tại sao mặt đất của ta ngày nay không bằng phẳng, địa hình phân hoá có chỗ cao, chỗ thấp, chia thành vùng núi, hay bình địa. Cột trụ trời đã bị thần phá đi, nhân gian lưu truyền cái gốc của cột nay là núi Yên Phụ toạ lạc tại vùng Hải Dương ngày nay. Còn những chỗ trước kia thần lấy đất đắp thành cột thì nay tạo thành các đại dương bao la, rộng lớn, là nơi hội tụ của mọi nguồn nước trên trái đất đổ về đó.

“Ông Đếm cát

Ông Tát bể

Ông Kể sao

Ông Đào sông

Ông Trồng cây

Ông Xây rú

Ông Trụ Trời”

Sau khi thần Trụ Trời hoàn thành xong công việc của mình thì những vị thần khác thay phần của ông tiếp tục những công việc để hoàn thành một thế giới sống hoàn hảo cho các sinh vật. Họ là những vị thần đầy quyền năng, cũn giống như ông Thần Trụ Trời, có công xây dựng và tạo lập nên đất trời.

Ấy mới thấy cái hay, phân chia đất trời không chỉ là tạo môi trường sống cho sinh vật, mà qua những giai thoại ấy lại trở thành những khía cạnh của nghệ thuật. Có đất phải có nước, thổ và thuỷ song hành cùng nhau, trong nhu có cương, hỗ trợ nhau trong mọi mối quan hệ cộng tác, đó là nghệ thuật trong đôi mắt của loài người. Dù là thuỷ hay thổ, cũng là những nguồn tài nguyên mà con người có thể tận dụng trong quá trình lao động và tồn tại, phát triển. Con người có thể chinh phục những đỉnh núi cao, có thể chinh phục đáy đại dương sâu thẳm, là những thử thách mà vị thần của họ tạo ra để hoàn thiện con người hơn, trong quá trình tồn tại, họ sẽ phải đối mặt với những thử thách, gian truân như leo núi cao xuống vực sâu, không chỉ thử lòng gan dạ mà còn rèn luyện cho họ những đức tính nên có để tạo nên một xã hội có nền văn minh tiên tiến. Ta thấy thần thoại không chỉ đơn thuần là những mẫu chuyện hay một chuỗi các sự kiện chỉ mang tính giải trí, mà nó còn chứa đựng những thông điệp nhân văn cao cả. Mỗi một tác phẩm chân chính được mọi người đón nhận như vậy phải có những dụng ý mang tính triết lí và sâu xa thì mới tồn tại và băng hoại với thời gian được.

Trải qua không biết bao nhiêu là sự thay đổi của các cuộc kiến tạo lịch sử, những giai thoại về thần thoại vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Người Việt vẫn không ngừng sáng tạo, bồi đắp thêm vào những mẫu chuyện ấy, nó không làm mất đi tính vốn có ban đầu của nó mà còn tăng thêm những giá trị mà con người muốn gửi gắm thêm vào để ngày càng làm cho những giá trị ấy tăng sức thuyết phục, và còn góp phần tạo thêm những giá trị nhân bản khác vào. Chính những điều đó đã làm cho nền văn học nghệ thuật nói chung ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, nhưng câu chuyện thần thoại nói riêng thì càng ngày được phổ biến hơn và dễ dàng được người đọc tiếp nhận và thưởng thức. Những nhân vật thần thoại không chỉ là những người có công tạo nên đất nên trời nữa mà còn là những nét văn hoá đặc trưng trong suy nghĩ của người Việt xưa và nay. Những vị thần thánh như là chỗ dựa tinh thần, nơi mà con cháu của họ có thể lấy làm tin tưởng và hưởng phước lành, đó không phải là mê tín thái quá mà đơn giản chỉ là cảm giác yên bình và tịnh tâm khi có những vị thánh nhân từ thuở hồng hoang khai thiên lập địa bảo hộ cho bản thân mình. Những niềm tin như vậy góp phần làm cho hình tượng của các nhân vật thần thoại sống mãi với hậu nhân của họ.

Thần thoại Thần Trụ Trời đã mở ra một không gian đầy sự li kì với những phép nhiệm màu đến từ các vị thần có công khai thiên lập địa từ thuở hồng hoang, khi đất trời bất phân. Những yếu tố kì ảo của tác phẩm là điều cốt lõi tạo nên sự lí thú của chính nó, dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những mẫu chuyện huyền bí và bí ẩn từ thuở xưa kia, khiến cho con người ta hiểu được rằng tổ tiên của chúng ta đã quan niệm đất trời được tạo lập như thế nào… Các nhân vật thần thoại cũng trở nên gần gũi và gắn kết với đời sống của con người hơn, trở thành những điều không thể thiếu trong bất kì một hoạt động văn hoá nghệ thuật nào. Cốt truyện được xây dựng theo hướng huyền ảo, tưởng chừng như người đọc được hoà mình vào thế giới nhiệm màu của các vị thần, không chỉ tạo nên sức hấp dẫn mà còn làm cho Thể loại thần thoại trở nên gắn kết với hiện thực, không xa rời thực tiễn và nhạt nhoà trong vô vàn những thể loại văn học khác hiện nay.

Thần thoại về Thần Trụ trời đã cho người đọc những hiểu biết về cách mà có trời có đất như hiện nay, giải thích tại sao mặt đất hình vuông mà trời hình tròn, tại sao có sông rồi biển, rồi lại có núi có đá,… những sáng tạo trong tư duy của người xưa tuy xa rời thực tế và đi ngược lại với những yếu tố khoa học nhưng không thể phủ nhận được sự tồn tại của những điều đó. Dù đó là những yếu tố siêu thực nhưng cũng là do tổ tiên xưa của ta xây dựng nên, đó là nét văn hoá lưu truyền, đậm đà bản sắc dân tộc, là một nét đẹp không thể thiếu trong suốt hàng triệu năm khai thiên lập địa. Nó cho ta có tinh thần hướng về nguồn cội, phải biết “Uống nước nhớ nguồn”, vì đó là một đạo lí cơ bản khi ta mang hình hài của một cọn người và tồn tại trên cõi đời này

“Cây có gốc mới nở cành xanh lá,

Nước có nguồn mới bể cả sông sâu.

Người ta nguồn gốc từ đâu,

Có tổ tiên trước rồi sau có mình


Câu 1 Thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường (xen lục ngôn).

Câu 2 Đối tượng trào phúng trong bài thơ là chính tác giả (ta).

Câu 3 Sắc thái nghĩa của từ “khoe” trong nhan đề “Khoe lười”:

– Nghĩa của từ “khoe”: cố ý làm cho người ta thấy, biết cái tốt đẹp, cái hay của mình, thường là bằng lời nói.

– Trường hợp nhan đề “Khoe lười” cho thấy tác giả cố tình chế giễu chính bản thân, muốn khoe ra cái xấu của mình cho mọi người cùng biết.

– Đây cũng là cách kết hợp từ ngữ tạo nên nghệ thuật trào phúng.

Câu 4  

– Chủ đề của bài thơ: Tiếng cười tự trào của tác giả về sự lười biếng của chính mình, nhưng qua đó cũng cho thấy thông điệp sâu sắc: con người nên biết cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi, sống thuận theo tự nhiên để đạt được sự hài hòa.

– Một số căn cứ để xác định chủ đề:

+ Từ ngữ

+ Nhan đề

+ Nội dung của văn bản

+ Mạch cảm xúc trong văn bản

Câu 5 Tác dụng của việc kết hợp từ ngữ chỉ thời gian và từ ngữ miêu tả công việc nên làm trong đoạn thơ:

– Từ ngữ chỉ thời gian: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là bốn mùa trong năm, mỗi năm đều có sự lặp lại, tuần hoàn.

– Theo tác giả, mùa xuân là mùa ăn chơi, mùa cảnh sắc tươi đẹp nên phải tận hưởng; mùa hạ nóng bức nên lao động dễ mệt mỏi, kiệt sức; mùa thu mát mẻ chỉ phù hợp với ngâm thơ, vịnh cảnh; mùa đông lạnh lẽo cũng phù hợp với chuyện nghỉ ngơi.

--> Tác dụng: Giúp tác giả khoe sự lười biếng của bản thân cứ lặp đi lặp lại theo thời gian như một vòng tuần hoàn. Điều này cũng góp phần tạo nên sự trào phúng cho bài thơ. Bên cạnh đó, nhà thơ còn có hàm ý sâu xa: nên cần bằng giữa công việc và nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi cũng cần thiết để chuẩn bị cho tương lai.

Câu 6  

– Hình thức:

+ Mô hình đoạn văn phù hợp, đảm bảo không mắc lỗi diễn đạt, chính tả.

+ Dung lượng: Ngắn gọn, từ 5 đến 7 dòng.

– Nội dung: Nêu được những giải pháp để loại bỏ thói quen trì hoãn.

– Gợi ý:

+ Đặt ra những mục tiêu phù hợp với bản thân và tạo động lực để đạt được nó bằng cách tự thưởng cho những thành quả của mình.

+ Ngắt kết nối với những gì khiến chúng ta mất tập trung.

+ Quản lí thời gian của bản thân.

Một câu chuyện để lại cho em nhiều ấn tượng nhất chính là nhân vật người cha trong “Câu chuyện bó đũa”.

Nhân vật này không được miêu tả nhiều về đặc điểm ngoại hình cũng như tính cách. Mà tác giả đã tập trung khắc họa các suy nghĩ, hành động của ông, từ đó để cho người đọc tự có những cảm nhận riêng về người cha này. Trong câu chuyện, người cha này đã đến cảnh gần đất xa trời, nhưng vẫn đau đáu lo lắng những đứa con của mình. Dù cho những đứa con ấy đều đã trưởng thành, có gia đình riêng. Điều đó cho thấy tình yêu thương ấm áp, lớn lao vô bờ của một người cha dành cho những đứa con của mình. Mà điều khiến ông trăn trở, đó chính là việc những đứa con của mình ngày càng xa cách nhau, không còn đoàn kết như trước nữa. Vì thế, ông quyết định trước lúc ra đi, phải giúp các con của mình thắt chặt tình thân hơn. Do đó, ông đã gọi các con đến trước giường bệnh, yêu cầu từng người lần lượt bẻ từng cây đũa, rồi chuyển thành một bó đũa lớn. Khi thấy mọi người có thể bẻ gãy chiếc đũa đơn lẻ dễ dàng, nhưng chẳng thể bẻ gãy được một bó đũa to. Ông mới từ tốn nói ra bài học về sự đoàn kết, từ đó khiến các con tỉnh ngộ. Cách dạy bảo con cái ấy đã thể hiện sự thông minh, khôn khéo của người cha già với vốn hiểu biết uyên bác.

Có thể nói, người cha trong câu chuyện là một nhân vật mang trong mình những nét đẹp đáng quý. Ông vừa là người thông minh, uyên bác, lại là người cha yêu thương con cái, quan tâm đến gia đình. Chính vì vậy mà em rất kính trọng và yêu quý nhân vật này.