

Nguyễn Đình Khải
Giới thiệu về bản thân



































1Đọc hiểu
Câu 1. Hiện tượng tiếc thương sinh thái là nỗi đau khổ của con người trước những mất mát về sinh thái do biến đổi khí hậu gây ra, khiến con người phản ứng tương tự như khi mất người thân.
Câu 2. Bài viết trình bày theo trình tự diễn giải – nêu hiện tượng, giải thích khái niệm, đưa ví dụ minh họa, mở rộng vấn đề và kết luận.
Câu 3. Tác giả sử dụng các nghiên cứu khoa học, ví dụ cụ thể từ các cộng đồng chịu ảnh hưởng như người Inuit ở Canada, nông dân Australia, người bản địa ở rừng Amazon, và kết quả khảo sát quốc tế với thanh thiếu niên ở 10 quốc gia.
Câu 4. Tác giả tiếp cận vấn đề biến đổi khí hậu theo góc nhìn nhân văn và tâm lý học, nhấn mạnh tác động tinh thần sâu sắc của nó đối với con người thay vì chỉ phân tích khía cạnh môi trường hay kinh tế.
Câu 5. Thông điệp sâu sắc nhất là: Biến đổi khí hậu không chỉ hủy hoại môi trường mà còn làm tổn thương tinh thần, bản sắc và đời số văn hóa của con người, do đó cần được nhìn nhận ra toàn diện cả về sinh thái và môi trường
2 viết
Câu1
Môi trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống và sự phát triển bền vững của con người. Một môi trường trong lành, xanh – sạch – đẹp không chỉ là điều kiện thiết yếu để con người tồn tại, mà còn là nền tảng cho sức khỏe, tinh thần và chất lượng cuộc sống. Trong bối cảnh hiện nay, khi tình trạng ô nhiễm ngày càng gia tăng do các hoạt động sản xuất, sinh hoạt thiếu kiểm soát, việc bảo vệ môi trường càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bảo vệ môi trường là bảo vệ sự sống cho chính chúng ta và thế hệ tương lai. Đó không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan chức năng mà còn là bổn phận của mỗi cá nhân. Những hành động đơn giản như không xả rác bừa bãi, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên hay trồng thêm cây xanh… đều có ý nghĩa tích cực. Mỗi người hãy bắt đầu từ những việc nhỏ để góp phần xây dựng một môi trường sống an toàn, lành mạnh. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ chính mình.
Câu2
Hình tượng người ẩn sĩ là một nét đẹp văn hóa lâu đời trong thơ ca trung đại Việt Nam. Qua hai bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, hình tượng ấy được thể hiện với những sắc thái riêng biệt, góp phần làm nổi bật phong cách và tư tưởng của từng tác giả. Trong bài thơ “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện hình ảnh một ẩn sĩ đầy tự tại, chủ động tìm về với thiên nhiên và đời sống giản dị. Câu thơ “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ” không phải là lời tự chê trách mà là cách nói ẩn dụ thể hiện thái độ thoát tục, khinh thường danh lợi. Nhà thơ lựa chọn sống hòa hợp với thiên nhiên, lấy măng trúc, giá đỗ, hồ sen, bóng cây làm bạn. Tất cả đều toát lên vẻ ung dung, an nhiên, coi phú quý như “chiêm bao”. Đó là lý tưởng sống của một bậc trí giả – dùng sự “nhàn” để giữ mình thanh cao và sống thuận với lẽ trời. Ngược lại, bài thơ của Nguyễn Khuyến mang một sắc thái trầm lắng, sâu kín hơn. Cảnh thu trong thơ ông không chỉ là phong cảnh mà còn là sự phản chiếu nội tâm. Người ẩn sĩ hiện lên với vẻ trầm tư, nhạy cảm trước sự thay đổi của thiên nhiên, khi lắng nghe tiếng ngỗng trên không, khi ngắm nhìn hoa năm cũ. Hình ảnh “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” thể hiện sự tự vấn sâu sắc. Nguyễn Khuyến dường như không chỉ sống ẩn mà còn mang trong lòng một nỗi trăn trở, day dứt trước thời cuộc. Người ẩn sĩ trong thơ ông không chỉ tìm đến sự thanh tịnh mà còn chất chứa tâm sự thầm kín về trách nhiệm với đời. Từ sự so sánh trên, có thể thấy cả hai nhà thơ đều thể hiện hình tượng ẩn sĩ gắn bó mật thiết với thiên nhiên, tìm đến sự thanh cao, giản dị. Tuy nhiên, trong khi Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện lý tưởng sống “nhàn” một cách triệt để, đầy chủ động và bình thản thì Nguyễn Khuyến lại mang theo một nỗi niềm sâu kín, thể hiện tâm sự của người trí thức yêu nước trong hoàn cảnh đất nước đổi thay. Cả hai hình tượng đều giàu giá trị nhân văn và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những con người có học, có đạo lý, biết sống vì cái cao cả hơn bản thân.