

Nguyễn Huỳnh Mỹ Phương
Giới thiệu về bản thân



































Câu 1: Nét độc đáo về nghệ thuật trong bài thơ "Ái quốc"
Bài thơ "Ái quốc" thể hiện tinh thần yêu nước mạnh mẽ và khơi gợi cảm xúc thông qua các yếu tố nghệ thuật đặc sắc. Thứ nhất, tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng mang sức nặng ý nghĩa, kết nối dễ dàng với quần chúng nhân dân. Thứ hai, cấu trúc bài thơ chặt chẽ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và tính chiến đấu, vừa giàu cảm xúc, vừa mạnh mẽ thúc giục hành động. Thứ ba, hình ảnh thơ được xây dựng sắc nét, giàu biểu tượng, khơi gợi lòng tự hào và ý chí quyết tâm bảo vệ quê hương. Tất cả những yếu tố trên tạo nên sức cuốn hút đặc
Câu 2: Vai trò của giới trẻ trong xây dựng đất nước
Thế hệ trẻ ngày nay có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững của đất nước trong thời đại mới. Trước tiên, giới trẻ cần tích cực học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, khoa học và công nghệ để đáp ứng nhu cầu của thời đại 4.0. Bên cạnh đó, các bạn trẻ nên phát huy tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, tìm kiếm giải pháp mới mẻ, góp phần xây dựng kinh tế đất nước. Không chỉ thế, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời nâng cao ý thức về trách nhiệm với xã hội và môi trường cũng là những nhiệm vụ quan trọng. Cuối cùng, thế hệ trẻ cần luôn giữ vững tinh thần yêu nước, đoàn kết và không ngừng cống hiến để Việt Nam vươn xa hơn trên bản đồ thế giới. biệt và khả năng truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ.
Câu 1: Văn bản đã tuân thủ quy luật của thể thơ song thất lục bát, với hai câu đầu là thất ngôn (7 chữ), tiếp theo là lục bát (6 chữ và 8 chữ). Đặc trưng này được thể hiện xuyên suốt bài thơ, tạo nhịp điệu chặt chẽ, hài hòa và gợi cảm xúc mạnh mẽ.
Câu 2: Chủ đề của bài thơ là tình yêu nước sâu sắc, thể hiện lòng tự hào và đau xót trước cảnh mất nước, từ đó kêu gọi sự đoàn kết của dân tộc để đấu tranh, giành lại độc lập.
Câu 3: Sự độc đáo trong cách kết hợp từ ở câu "Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao" là việc sử dụng hình ảnh mạnh mẽ, giàu tính biểu tượng, gợi lên sự tàn khốc của chiến tranh và mất mát. Từ ngữ "nước tanh" và "non chồng thịt cao" tạo cảm giác đau thương, dữ dội, khiến người đọc không thể không xót xa.
Câu 4: Bố cục bài thơ gồm ba phần:
- Phần đầu: Khẳng định lòng yêu nước và sự quý giá của đất nước.
- Phần giữa: Bày tỏ nỗi đau trước cảnh mất nước, chịu sự áp bức của ngoại bang
- Phần cuối: Kêu gọi tinh thần đoàn kết, đồng lòng quang phục quê hương. Mạch cảm xúc chuyển từ tự hào và yêu thương sang đau đớn, rồi bừng lên ý chí đấu tranh mãnh liệt.
Câu 5: Trong thời hiện đại, chúng ta có thể thể hiện lòng yêu nước bằng nhiều cách: học tập để nâng cao tri thức, đóng góp sức mình xây dựng đất nước, bảo vệ môi trường, giữ gìn văn hóa truyền thống, và lan tỏa những giá trị tốt đẹp. Tình yêu nước không chỉ được thể hiện qua lời nói, mà cần được cụ thể hóa bằng những hành động thiết thực, nhỏ bé nhưng ý nghĩa.
1.fhcsdfasdmgfhdh gjhxvg jcvgfnxnvg
2.zm fghsxd fdbzxf hsdfdzghfgdjh fgsdnry fu
1 . mâu thuẫn chính trong đoạn trích trên là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật Trương Ba khi linh hồn thanh cao của ông bị nhốt vào thân xác thô lỗ của anh hàng thịt.
2. Chủ đề của đoạn trích trên là Quan niệm cao đẹp về cách sống
3.
4.
5.Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có bảy hồi, phần trích học sách giáo khoa là hồi kết. Thông qua bi kịch của Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc, người xem vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã chuyển thể thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã làm rõ khát vọng được sống là chính mình của Hồn Trương Ba.
Trong đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt, lúc này Trương Ba đã bắt đầu nhận ra sự thay đổi của bản thân, ông dần sa ngã, chiều chuộng theo những sở thích của cái xác, mà quên đi những thói quen, những thú vui xưa kia của mình. Sự thật ấy khiến Trương Ba vô cùng đau khổ và dằn vặt khi phải luôn đấu tranh chống lại những ý muốn tầm thường của xác thịt để giữ lại cho mình sự trong sạch, thanh cao một đời gìn giữ.
Trương Ba muốn rời khỏi xác thịt, muốn thoát khỏi bi kịch tha hóa của bản thân. Trương Ba đã có cuộc tranh luận gay gắt xác người hàng thịt, tuy nhiên trong trận tranh cãi ấy, Trương Ba lại trở thành kẻ đuối lý, liên tục bị cái xác vạch trần, mỉa mai, thậm chí là chế giễu, điều đó khiến ông vừa đau khổ vừa căm tức.
Ngay lúc vừa đối diện ba mặt một lời với cái xác, Trương Ba đã vội vàng phê phán, chỉ trích cái xác chỉ là thứ “xác thịt đui mù”, “vô tri, không có tiếng nói, “không có tư tưởng cảm xúc”,… nhằm giải phóng nỗi căm giận trong lòng, cũng như để áp chế sự ngông cuồng, ngạo mạn của nó.Thế nhưng đáp lại lời chỉ trích của Trương Ba cái xác lại tỏ ra rất bình tĩnh, ung dung, nó chỉ ra những sự thay đổi ghê gớm của ông bao gồm việc thích ăn thịt, uống rượu, thèm tiết canh, rồi thì có lòng ham muốn nhục dục khi đứng trước người vợ trẻ trung của hàng thịt.
Từ khi sống trong thân xác mới, Trương Ba không còn thiết tha với cái thú cờ vây tao nhã, không còn khéo léo khi chăm sóc vườn tược, trở nên nóng tính, cục cằn, điều đó bộc lộ rõ khi ông đã dùng sức mạnh của người hàng thịt để tát anh con trai đến hộc cả máu mồm chỉ vì anh này muốn bán cái vườn để mở sạp thịt lợn.
Trước những lời vạch trần của cái xác, Trường Ba vẫn cố cự lại bằng những lời lẽ yếu ớt, ông đổ tại rằng do xác thịt đã sai khiến, do cái xác đã làm ông trở nên thay đổi, tha hóa. Ông khẳng định mình và cái xác đui mù ấy rõ ràng là hai cá thể tách biệt chẳng hề có sự liên quan gì tới nhau, tất cả những thay đổi đều là của xác thịt còn bản thân ông vẫn giữ nguyên một tâm hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”.
Tuy nhiên trước cái lý lẽ yếu ớt ấy của Trương Ba, cái xác đã lập tức phản bác, thẳng thừng phê phán ông là người ưa sĩ diện, luôn lấy cái xác ra để che đậy cho hành vi thỏa mãn ham muốn thú vui tầm thường, còn bản thân thì vẫn tự nhận mình là thanh cao, thánh khiết, để lòng được thanh thản, không cảm thấy dằn vặt.
Sự vạch trần ấy đã làm Trương Ba trở nên đuối lý, bởi lẽ cái xác đã nói đúng, bản thân ông không thể chiến thắng những suy nghĩ tầm thường, thuận theo sở thích của cái xác, không thể bảo vệ bản ngã, giữ gìn được những nét đẹp tâm hồn mà bản thân đã xây dựng bấy lâu nay. Điều đó đối với Trương Ba là một sự đau khổ tột cùng, một cú sốc lớn, cũng chính là sự xấu hổ, nhục nhã khi bản thân trở nên sa ngã, trở thành một người không phải mình, sau khi đã sống được hơn hai phần ba cuộc đời.
Cuộc đối thoại kết thúc trong sự bế tắc và đau khổ của Trương Ba. “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”. Lời độc thoại cho thấy cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng dữ dội ở Trương Ba.
Thực ra cuộc đấu tranh đó đã được tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm qua màn đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Đó là cuộc đấu tranh giữa xác và hồn; giữa cao cả và đê hèn; giữa tốt và xấu; giữa cao thượng và dung tục; giữa khát vọng và dục vọng. Đó cũng là cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách.
Cuộc đấu tranh này phần thắng nghiêng về xác nhưng bản thân hồn Trương Ba đã không chịu lép vế, không khuất phục mà đã tìm mọi cách để được sống là chính mình – đây chính là nhân cách cao đẹp của Trương Ba. “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Lời thoại có tới hai lần phủ định “tôi không thể”; “không thể được” cho thấy quyết tâm rời bỏ xác hàng thịt là ý chí sắt đá của Trương Ba khi thấm thía nghịch cảnh trớ trêu của mình.
“Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Câu nói thể hiện nghịch cảnh của Trương Ba, sự bất nhất của cái bên trong và cái bên ngoài: “bên trong” chính là linh hồn, cảm xúc, tư tưởng, nhân cách cao đẹp của Trương Ba. Hồn là sự tinh anh chi phối điều khiển thể xác.
Đối lập bên trong là “bên ngoài” – xác thịt thô phàm của anh hàng thịt. Nhưng “cái bên ngoài” cần hiểu theo nghĩa rộng là hoàn cảnh sống, là bản năng, là nhu cầu tự nhiên, là dục vọng bản năng. Sự tha hóa của linh hồn Trương Ba chính là do linh hồn đã nhượng bộ, đã tự bán mình, tự thỏa hiệp với nhu cầu bản năng. Đây chính là sự dằn vặt, đau khổ, trăn trở của Trương Ba. Cả hai không thể hoà hợp bởi không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Đây là khát vọng mãnh liệt của Trương Ba, khát vọng được sống hòa hợp. “Toàn vẹn” nghĩa là phải có sự hòa hợp giữa bên trong và bên ngoài, giữa nội dung và hình thức, giữa thể xác và linh hồn. Không thể có cuộc sống nào mà “hồn này xác kia” được. Cuộc sống không thuận theo lẽ tự nhiên, không thuận theo tạo hóa, sống mà không được là chính mình thì đó là một bi kịch nghiệt ngã.
Ý chí mạnh mẽ của Trương Ba xuất phát từ khát vọng “được sống là chính mình”, và để “được sống là chính mình” lúc này, Trương Ba không có con đường nào khác là cái chết. Vì chỉ khi chết đi, ông mới thực sự là chính mình, mới hoàn nguyên được vẻ đẹp cao khiết của linh hồn mình. Với Trương Ba, thiên đường đẹp nhất để linh hồn có thể trú ngụ sau khi chết chính là phục sinh trong trái tim của những người yêu quý ông.
Đế Thích vẫn muốn Trương Ba tiếp tục tồn tại nhưng Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”.
Ông cũng khuyên nhủ Đế Thích phải làm cho bằng được việc đúng, đó chính là làm cho cu Tị được sống lại. Những suy nghĩ tốt đẹp của Trương Ba và đức hi sinh cao thượng của ông cuối cùng cũng thay đổi được tư duy của Đế Thích. Cu Tị được sống còn Trương Ba trở về với chính mình chứ không còn là “cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt nữa”.
Hồn Trương Ba nhập vào cảnh vật quen thuộc trong gia đình và gắn bó trong trái tim những người yêu thương ông. Trương Ba đã phục sinh linh hồn mình trong trái tim của những người yêu thương. Linh hồn ông mãi mãi bất tử trong màu xanh cây vườn và bất tử trong những người yêu mến ông.
Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm.
Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.
Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp.
Thông qua màn đối thoại giữa hai nhân vật hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn. Làm nên thành công của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung, Lưu Quang Vũ đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật: Sáng tạo lại cốt truyện dân gian. Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống truyện. Có chiều sâu triết lý khách quan.
a. x