Viết đoạn văn khoảng 200 chữ cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật vật Tử Hư
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Trong đoạn trích trên, nhân vật Vũ Nương thể hiện vẻ đẹp tự nhiên và thanh khiết thông qua cách mô tả và lời thoại của Phan. Cô được miêu tả như một người con gái có nguồn gốc tinh túy, với một mái nhà bình yên và thiên nhiên hoang sơ xung quanh. Cây cối thành rừng và mộ tiên nhân của cô mang lại hình ảnh một vùng đất thiêng liêng và kỳ diệu. Điều này tạo nên một bức tranh về vẻ đẹp tự nhiên và gần gũi với thiên nhiên của Vũ Nương.
Câu thoại của Phan khi nói về nhà cửa và mộ tiên nhân của Vũ Nương càng làm tôn thêm vẻ đẹp của cô. Gai rợp mắt ở phần mộ tiên nhân có thể được hiểu như một biểu tượng cho sự nổi bật và đặc biệt của Vũ Nương trong truyền thuyết hoặc xã hội của họ.
Với cách mô tả và lời thoại này, Vũ Nương xuất hiện như một nhân vật đẹp và quyến rũ, được tôn vinh và kính trọng trong câu chuyện. Cô có một vẻ đẹp tự nhiên và linh thiêng, gợi lên hình ảnh của một người phụ nữ đầy quyền uy và cuốn hút.

ý mik là 12 câu thơ nói nguyên vẻ đẹp của kiều thôi
kiều càng sắc xảo mặn mà
........................
1 thiên bạc mẹnh lại càng não nhân
Tham khảo (Lần sau ghi rõ đề ra em nhé, không câu hỏi bị xóa lại hỏi vì sao!)
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, tác phẩm mang đến tinh thần nhân đạo và hiện thực cao cả. Truyện Kiều là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, phản ánh sâu sắc nhân bản về quyền con người. Truyện tập trung miêu tả nhân vật Thúy Kiều, một nhân vật với trọn vẹn vẻ đẹp, tài năng và đức hạnh.
Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của Truyện Kiều có thể nói là là bức chân dung miêu tả rõ nét nhất vẻ đẹp của Thúy Kiều. Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy, hai cô con gái đầu lòng của nhà viên ngoại họ Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho ta thấy sắc đẹp hai chị em Thúy Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên
"Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền làm tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Chỉ hai câu:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn"
Đôi mắt của nàng Kiều được miêu tả bằng hai hình ảnh ẩn dụ:
"Làn thu thủy, nét xuân sơn"
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu, còn lông mày lại thanh nhẹ, đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ, tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố, liệt kê, đối ngữ, tương hỗ được vận dụng tuyệt đối đã đưa sắc đẹp của Thúy Kiều đến tuyệt đỉnh, vẻ đẹp sắc nước hương trời, không còn từ ngữ hay sự so sánh nào có thể lột tả được nữa.
"Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
"Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy mà phải "ghen", "hờn", tức giận trước vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng Kiều. Vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành khiến mọi sự vật trên đời cũng đều ghen tị.
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa, có sức cuốn hút mãnh liệt của Thúy Kiều, tuy nhan sắc đẹp mà không được lòng người như vậy, có thực sự đáng ngưỡng mộ hay không? Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta thấy những cơn sóng gió bão tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng.
Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nàng được Nguyễn Du vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng:
"Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai"
Giải nghĩa câu thơ có thể thấy Nguyễn Du miêu tả rằng về nhan sắc Thúy Kiều là số một trên đời nhưng về tài thì Kiều cũng thuộc loại nếu bị xếp thứ hai thì sẽ không biết ai là người thứ nhất. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
"Thông minh vốn sẵn tính trời"
Thứ nhì là tài cầm – kì - thi – họa:
"Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương"
Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân đã là cực phẩm, không ai hơn được nữa, nhưng rồi vẫn có người với tư chất không ai bì kịp là Kiều. Vẻ đẹp và tài năng của Kiều là sự sắp đặt của thiên mệnh.
Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du một cách trân trọng nhất.
Bằng một bút pháp điêu luyện kết hợp với lòng thương yêu của con người, nhất là người phụ nữ, Nguyễn Du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã, vừa có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn Chị em Thúy Kiều, đặc biệt là những câu thơ miêu tả tài sắc của nàng Kiều.


Em tham khảo nhé !
Nền văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X-XIX được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc, mà tiêu biểu nhất phải kể đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhắc đến Truyện Kiều người ta không chỉ đơn giản nhớ đến một tác phẩm vang danh một thời, mà Truyện Kiều được xem là kiệt tác văn học được xếp vào hàng kinh điển của cả nền văn học Việt Nam, chứ không của riêng thời đại nào. Truyện Kiều đã quá đỗi quen thuộc và đi vào đời sống của nhân dân ta một cách tự nhiên nhất, từ đó hình thành nên những nét sinh hoạt văn hóa thú vị và đặc sắc ví như bói Kiều, ngâm Kiều, tranh Kiều, rồi vịnh Kiều,... Phải nói hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào lại được truyền bá rộng rãi và thậm chí được dịch sang hơn hai mươi thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Truyện Kiều. Dẫu nhiều câu nhiều chữ, nhưng tựu chung lại giá trị của tác phẩm nằm ở hai điểm lớn đó là cảm hứng hiện thực và tư tưởng nhân đạo xuyên suốt trong cả tác phẩm. Đọc Truyện Kiều người ta thường dễ dàng nhận ra Nguyễn Du có một biệt tài tả người, tả cảnh rất hay, rất độc đáo ấy là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa nên hai thiếu nữ tài sắc vẹn toàn với những hình ảnh tượng trưng, so sánh rất tinh tế, rất tài hoa.
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, khi mà lúc này đây chị em Thúy Kiều vẫn đang sống cuộc sống êm ấm, nhung lụa. Phần mở đầu chủ yếu giới thiệu gia cảnh và thành viên trong gia đình Thúy Kiều, trong đó trọng tâm là miêu tả nhan sắc của hai chị em Vân, Kiều. Toàn bộ đoạn trích khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình. Ông ca ngợi vẻ đẹp tài năng và nhan sắc của con người, đồng thời dự cảm về số phận tài hoa nhưng bạc mệnh của Thúy Kiều, cũng như cuộc sống có phần êm đềm, tĩnh lặng của Thúy Vân. Nghệ thuật chủ yếu trong cách miêu tả vẻ đẹp nhân vật là bút pháp miêu tả cổ điển, hết sức ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp và tài năng của con người. Ngôn ngữ trau chuốt, chọn lọc, lời thơ lục bát có vần có nhịp rất trôi chảy và hàm súc.
Bốn dòng thơ đầu của đoạn trích là những khái quát chung nhất về hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều.
"Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
Vân và Kiều là hai người con gái lớn của Vương ông, Nguyễn Du dùng "tố nga" vốn có nghĩa là loài thiên nga xinh đẹp, điều đó nhằm phiếm chỉ vẻ đẹp thanh cao và duyên dáng của hai chị em Kiều. Tiếp đó Nguyễn Du lại lấy hình dáng cây mai làm "cốt cách", bởi mai từ xưa đến nay vẫn được xếp vào hàng "tứ quân tử", với vẻ đẹp thanh cao, ngay thẳng, sức sống mãnh liệt và kiên cường. "Tuyết tinh thần", tức là tâm hồn luôn luôn trong sáng, trắng đẹp tựa như những hạt tuyết mùa đông, điều đó cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp của hai cô gái kiêu sa, lòng không vướng nổi một hạt bụi trần. Kết lại, Nguyễn Du chốt rằng "Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười", hai cô gái ấy có những nét tính cách cao đẹp giống nhau, nhưng luận về tài năng và nhan sắc thì không hề giống nhau, ai cũng có những vẻ đẹp rất riêng, không dám so rằng ai hơn ai, đó là cách mà Nguyễn Du nhấn mạnh và cá thể hóa từng nhân vật để làm tiền đề cho đoạn sau.
Đến 14 câu thơ tiếp, mỗi một độc giả hoàn toàn nhận ra rằng Nguyễn Du chủ yếu tập trung vào nhân vật người chị là Thúy Kiều với 12 câu thơ đặc tả Kiều và với chỉ bốn câu thơ để nói về người em là Vân. Trước tiên nói về những câu thơ tả Thúy Vân.
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da"
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, chủ yếu là gợi nhiều hơn tả, vẽ nên dáng hình Thúy Vân với những nét đẹp rất độc đáo, có thể nói là khuôn vàng thước ngọc cho người con gái này. Nàng Vân với dáng vẻ "trang trọng" quý phái và cao sang, khuôn mặt thì tròn đầy phúc hậu như vầng trăng, nét mày ngài "nở nang", nàng cũng có khuôn miệng duyên dáng, tiếng nói, tiếng cười như "ngọc thốt", hết sức đoan trang nền nã. Thúy Vân cũng được ưu ái cho làn tóc mượt mà đến mây cũng không dám tranh, làn da trắng đến tuyết cũng phải nhường. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp rất hài hòa và lý tưởng, không nằm ngoài khuôn thước thẩm mỹ truyền thống trong xã hội cũ, điều đó đã định sẵn cũng như báo trước về một cuộc đời an nhàn và bình yên của nàng Vân trong Truyện Kiều, khác biệt hẳn so với chị mình.
Nói về nhan sắc và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã dùng một số lượng câu thơ gấp 3 lần so với khi tả Vân, thế nhưng vẻ đẹp của Kiều lại không được chỉ ra một cách cụ thể từ khuôn mặt, tóc tai, mày ngài, giọng nói, màu da giống như Vân mà Nguyễn Du thiên về hướng gợi bằng những hình ảnh thiên nhiên đặc sắc đem đến những ấn tượng chung và để độc giả tự suy ra vẻ đẹp khác biệt của nàng Kiều.
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai."
Có nhiều thắc mắc rằng vì sao Kiều là nhân vật chính nhưng lại được xếp tả sau, thì đến đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra tả Thúy Vân, để từ đó mà suy ra cái nhan sắc của Thúy Kiều. Nguyễn Du viết "Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn", đó là ý ngầm so sánh với Thúy Vân, nàng Vân có đẹp nhưng so ra Kiều lại vẫn hơn ở chỗ "sắc sảo, mặn mà". Như vậy phần miêu tả nhan sắc của Vân chính là bệ phóng làm nền cho phần tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng khẳng định được cái nhan sắc rực rỡ của nàng Kiều bấy nhiêu. Phải nói "sắc sảo mặn mà" đều là những từ khái quát một cách ngắn gọn về cả tâm hồn lẫn hình thể của nàng Kiều, nàng sắc sảo về trí tuệ, nàng mặn mà về tâm hồn, nhan sắc. Cách tả của Nguyễn Du đặc sắc là ở chỗ ấy. "Làn thu thủy nét xuân sơn", là miêu tả đôi mắt của người con gái đẹp và trong như nước mùa thu, còn "nét xuân sơn" chính là đôi mày cong tựa như núi mùa xuân, cách đặc tả đôi mắt của người thiếu nữ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến một trang tuyệt thế giai nhân mà chỉ cần một ánh mắt thôi, thì đã đủ làm người người say đắm. Đồng thời người ta vẫn ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, người có đôi mắt mà sóng mắt lại trong như nước mùa thu thì hẳn tâm hồn nàng phải trong trẻo và đẹp đẽ đến nhường nào. Câu "Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh", phần để chỉ đôi môi đỏ, cùng làn tóc xanh của Kiều, mà nó quá đỗi rực rỡ xinh đẹp khiến thiên nhiên cũng phải hờn, phải ghen. Nghiên cứu kỹ câu thơ dường như ta đã nhận ra một dự báo về tương lai đầy gian nan và trắc trở của nàng Kiều. "Một hai nghiêng nước nghiêng thành" cũng là câu thơ để chỉ vẻ đẹp đến độ kinh diễm của Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy có thể khiến cho nước mất nhà tan, vốn vẫn thường gọi là hồng nhan họa thủy. Như vậy Nguyễn Du không tả một cách cụ thể vẻ đẹp của Thúy Kiều mà lại chỉ ra sự ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên, cùng với lòng say mê ngưỡng mộ của cả thành trì, đất nước để tôn lên cái vẻ đẹp động lòng người của nàng Kiều. Câu thành ngữ cổ "nghiêng nước nghiêng thành" đã được tác giả sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp tuyệt thế thiên tiên của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ bề ngoài mà còn thể hiện ở những vẻ đẹp có chiều sâu khác đó chính là vẻ đẹp tài năng, trí tuệ của nàng.
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân."
Nguyễn Du viết "Sắc đành đòi một tài đành họa hai", như vậy Kiều ngoài cái vẻ đẹp kinh động lòng người, thì còn có một thân tài nghệ. Nàng sinh ra đã được trời phú một dung mạo tuyệt mỹ, lại thêm bản tính vốn thông minh, học đâu biết đấy, thế nên cầm kỳ thi họa chẳng có thứ nào mà nàng không tinh thông, đặc biệt là trong cầm kỹ, nàng đã rèn riêng cho mình một thân hồ cầm tuyệt kỹ, phải nói khó có ai sánh bằng. Có thể nói Thúy Kiều đã đạt đến mức lý tưởng trong quan niệm truyền thống, tài sắc đều là bậc nhất, trăm năm mới có một người. Thúy Kiều ngoài khả năng đánh đàn, nàng còn biết cả sáng tác nhạc, thế nhưng những bản nhạc của nàng lúc nào cũng ai oán, như buồn, như thương cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, điều đó đã phần nào nói nên tâm hồn đa sầu đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một số kiếp trái ngang của Thúy Kiều.
"Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Sau khi miêu tả về nhan sắc và tài năng hai chị em Thúy Kiều, thì Nguyễn Du đã có những dòng thơ để nhận xét chung về cuộc sống cũng như tình trạng hiện tại của hai mỹ nhân nhà họ Vương. Có thể nhận ra rằng Kiều và Vân là con gái của viên ngoại thế nên hai nàng có cuộc sống khá sung túc, đủ đầy, quần là áo lụa, không phải lo nghĩ. "Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" là đề cập đế tuổi tác của hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, xuân sắc phơi phới, đặc biệt với nhan sắc và tài năng như thế nhưng hai nàng lại có một nề nếp gia phong nghiêm cẩn "Êm đềm trướng rủ màn che", quanh quẩn chốn khuê phòng. Hai nàng cũng chưa từng một lần màng đến chuyện yêu đương nam nữ dù biết bao thanh niên tài tuấn đang dòm ngó, thế nên mới có câu "Tường đông ong bướm đi về mặc ai".
Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du. Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người...
Tham khảo:
Trải qua bao năm tháng “Truyền Kiều” của Nguyễn Du vẫn lưu dấu trong tâm khảm bạn đọc không chỉ bởi ngôn ngữ trong sáng, các biện pháp tu từ điêu luyện mà còn bởi tác phẩm có những câu thơ hay nhất, đẹp nhất, tiêu biểu cho bút pháp tả người của tác giả:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
(Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”)
Bốn câu thơ 28 chữ mà giống như 28 viên ngọc bằng ngôn ngữ toả sáng lấp lánh trong cả trang thơ. Vừa chiêm ngưỡng dáng hình mảnh dẻ thanh tao và tâm hồn trắng trong như tuyết của hai người con gái đầu lòng nhà ông bà Vương viên ngoại, người đọc chợt sững sờ trước bức chân dung giai nhân được hé lộ bằng những đường nét đầu tiên:
Vân xem trang trọng khác vời
Dòng thơ giới thiệu khái quát đủ để người đọc cảm nhận vẻ đẹp cao sang, quí phái của Thuý Vân, để rồi liền sau đó, như một nhà nhiếp ảnh tài ba, Nguyễn Du hướng ống kính của mình vào từng đường nét cụ thể trên gương mặt của người con gái:
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân, từng đường nét dường như đều là một kì công của tạo hoá,gương mặt tròn đầy, tươi sáng dịu hiền như ánh trăng, đôi mày dài thanh thoát, miệng cười tươi thắm như hoa, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc đen, mềm, óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết… Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến hoa, lá, ngọc, vàng, mây, tuyết-những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ yêu kiều của người con gái ấy.
Vẫn là bút pháp ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều. Cụ thể trong thủ pháp liệt kê: khuôn mặt, đôi mày, làn da, mái tóc… Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng: “đoan trang”,“nở nang”, “đầy đặn”. Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ. Điều kì diệu ở đoạn thơ này là Nguyễn Du đã miêu tả chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của nàng hoà hợp, êm đềm với xung quanh, được thiên nhiên yêu thương,nhường nhịn: “mây thua”; “tuyết nhường” nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, êm ấm và một tương lai tươi sáng đón chờ.
Đoạn thơ khép lại sau khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh một nàng Thuý Vân sắc nước hương trời bằng ngôn ngữ thơ tinh luyện, những nét vẽ có thần, hàm xúc, gợi cảm, các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình.Hàm ẩn đằng sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quí mến trân trọng,ngợi ca con người mà đặc biệt là người phụ nữ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Đọc đoạn thơ, tìm hiểu kĩ về đoạn thơ, càng kính phục Nguyễn Du em càng trân trọng sự tinh tế trong ngôn ngữ Tiếng Việt. Bất giác em mong muốn được thay vài chữ trong câu thơ lúc sinh thời của đại thi hào dân tộc để diễn tả những suy nghĩ của mình:
“Nhiều trăm năm lẻ về sau nữa
Thiên hạ mãi còn nhớ Tố Như”

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Có lẽ, ai đọc tác phẩm "Chữ người tử tù" đều rung động cảm phục trước vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao.
Truyện kể về nhân vật Huấn Cao- một kẻ cầm đầu bọn phản loạn dám đứng lên chống lại triều đình.Khi bị bắt giam ở nhà tù tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm lòng viên quản ngục ông đã đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Tình huống truyện vô cùng độc đáo. Huấn Cao là người cho chữ nhưng lại là tử tù chờ ngày ra pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ nhưng đồng thời lại là người quản lí trại giam nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc gặp gỡ đã tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi bật lên vẻ đẹp rạng ngời của nhân vật Huấn Cao.
Trước hết để xây dựng hình tượng Huấn Cao, tác giả lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát ngoài đời - môt con người mà ông hằng yêu mến kính trọng. Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quá lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa quyện với cái đẹp của khí phách. Dưới ngòi bút tài hoa và bút pháp lãng mạn, Nguyễn Tuân đã xây dựng lên một nhân vật lí tưởng, vì vậy nhân vật này đẹp nhất trong thế giới nhân vật " vang bóng một thời". Khi nói về Huấn Cao , nhà văn không đi vào miêu tả lai lịch xuất thân mà bằng cách miêu tả gián tiếp để dựng lên chân dung nhân vật. Đây là một cách miêu tả "vẽ mây nảy trăng". Cái tài của Huấn Cao được xác nhận khi quản ngục vừa nhận được phiến trát nói về người tù sẽ đến đề lao của mình " Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?" Quản ngục biết rằng chữ của ông Huấn " đẹp lắm, vuông lắm", "Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Qua đó, ta cũng thấy được thái độ trân trọng của tác giả với những bậc tài hoa và nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân tộc.
Bên cạnh tài viết chữ đẹp Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục để trở về với cuộc sống tự do. Như vậy Huấn Cao trở thành mối đe dọa cho bất cứ trại giam nào có vinh hạnh được giam giữ ông. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để chọc trời khuấy nước. Nhưng trong cái xã hội phong kiến ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng sa cơ lỡ vận. Nhưng người anh hùng này không giống những người anh hùng sa cơ lỡ vận khác mà ta đã bắt gặp trong thơ của Nguyễn Du khi nói về người anh hùng Từ Hải: " Hùm thiêng gặp bước sa cơ cũng hèn " và lại càng không giống tâm trạng con hổ trong bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ. Với Huấn Cao những ngày cuối cùng trong cuộc đời ông lại ngời lên khí phách của một đấng trượng phu, của một người anh hùng. Điều đó được thể hiện ngay trong tác phẩm khi ông được dẫn đến đề lao bằng hành động " chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái". Hành động đó thể hiện cái uy của ông đối với những người bạn tù trước sự phản ứng và tuân thủ của họ đồng thời thể hiện thái độ khinh bạc của mình đối với bọn lính áp giải bởi bọn chúng cũng chỉ là hạng người tiểu lại giữ tù mà thôi.
Nếu chỉ thấy tài hoa và khí phách của Huấn Cao thì hình tượng nhân vật Huấn Cao sẽ thiếu đi sự gần gũi đối với mọi người. Nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa một nét phẩm chất nữa là Huấn Cao có thiên lương trong sáng. Một con người bao dung độ lượng, trọng nghĩa khinh tài khiến cho Huấn Cao đẹp như một nhân vật huyền thoại và điều đó được tác giả thể hiện trong hoàn cảnh éo le nhất khi mà kịch tính của câu truyện được đưa lên đỉnh điểm. Đó là vào một buổi chiều lạnh, ngục quan nhận được công văn của quan Hình bộ Thượng thư rằng sẽ bắt giải Huấn Cao và những người bạn của ông vào kinh lãnh án vào sáng sớm hôm sau. Trong khi viên quản ngục lặng người đi thì Huấn Cao lại lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười. Ông suy nghĩ về tấm lòng về sự biệt đãi của thầy trò viên quản ngục đối với mình suốt một tháng qua và ông mỉm cười - cái nụ cười bao dung và độ lượng, để bằng lòng cho chữ viên quản ngục. Trước đây ông chỉ bằng lòng cho chữ những người bạn tri kỉ của mình nhưng ông lại bằng lòng cho chữ viên quản ngục như đang lấy tấm lòng của mình đáp lại tấm lòng của thầy Quản. Vì vậy ông nói mà như......................." Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Chính vì vậy Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “dậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Ở đây không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Vẻ đẹp đó đã làm cho viên quản ngục "khúm núm cất những đòng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng". Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì "run run bưng chậu mực". Cái tư thế ấy cho thấy viên quản ngục và thầy thơ lại cảm thấy mình thật nhỏ bé trước một nghệ sĩ tài hoa, một con người có khí phách anh hùng, một con người không vì vàng bạc mà ép mình cho chữ, một con người mà đến cảnh chém chết còn không sợ nhưng lại sợ "phụ một tấm lòng trong thiên hạ".
Nhân vật Huấn Cao hiện lên với ba phẩm chất là một con người có tài hoa, khí phách và có thiên lương trong sáng, là một người anh hùng có trí có dũng có tâm. Qua đó, nhà văn muốn gửi gắm quan niệm về cái đẹp thông qua nhân vật này, đó là: con người lí tưởng trước hết là con người có tài có tầm cao văn hóa và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài của mình. Cái tài phải đi song song với bản lĩnh khí phách. Thế nhưng con người có tài có khì phách chưa đủ mà còn phải có cái tâm trong sáng. Nhà văn Nguyễn Tuân rất coi trọng chữ "tâm" coi trọng thiên lương của mỗi con người. Đúng như nhà văn Nguyễn Du đã viết:
" Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Cho nên với nhân vật Huấn Cao - một con " Nhất sinh đê thủ bái mai hoa " (cả đời chỉ biết cúi đầu trước vẻ đẹp của hoa mai ) nhưng vì có thiên lương trng sáng nên rất nâng niu, cảm kích, trân trọng trước tấm lòng "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" của viên quản ngục, sống giữa cái xấu xa cái ác mà vẫn hướng thiện. Không những thế Huấn Cao còn dàng cho viên quản ngục những lời khuyên rất chân thành: " thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi." Nó giống như lời khuyên bảo của cha ông xưa: " đói cho sạch, rách cho thơm", dù ở bất kì nơi đâu cũng phải giữ cái đạo làm người.
Với Nguyễn Tuân cái tâm luôn là gốc rễ của nhân cách là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách con người. Đồng thời, nó còn có giá trị gợi lại nét bẳn sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị mai một và khẳng định phẩm chất trong sáng của con người:
"Bần tiện bất năng di
Phú quý bất năng dâm
Uy vũ bất năng khuất"
Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người mang những phẩm chất tốt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng lại tự do về tâm hồn. Hay nói khác đi,Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đang đầy rẫy những cái xấu xa ,tội lỗi, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên những hiện thực tầm thường, tăm tối để toả sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lý dân tộc.
Dựng lên hình tượng Huấn Cao với vẻ đ...

Bài thơ Qua Đèo Ngang gây nức lòng người đọc qua bao thế kỷ. Nó ấn tượng không phải bằng lời văn nhẹ nhàng sâu lắng giàu cảm xúc mà còn bởi chính lối nói mà các thi nhân xưa thường dùng: tả cảnh ngụ tình.
Đèo Ngang là chặng dừng chân đầu tiên trên đường vào Nam nhận nhiệm vụ. Xa quê hương, gia đình, người thân lòng nữ sĩ không khỏi bâng khuâng. Tín hiệu nghệ thuật đầu tiên người đọc nhận thấy là bóng xế tà. Tới đây mặt trời sắp lặn, hoàng hôn buông xuống, vũ trụ đang chìm dần vào cõi hư vô vắng lặng. Có chăng chỉ còn lại những tia sáng yếu ớt cuối chiều. Từ tà diễn tả một khái niệm sắp tàn lụi, biến mất. Không gian và thời gian gợi nỗi buồn man mác, đặc biệt của người lữ thứ tha hương:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau
Buổi chiều mà lại là chiều tà gợi cho người ta thêm nhớ hơn. Nữ sĩ cũng vậy, khoảng thời gian ấy thích hợp nhất cho sự bộc lộ tâm trạng nhớ nhung khắc khoải. Lữ thứ chân bước vội cũng như cánh chim chiều mau cánh tìm chỗ trú ngụ, lũ trẻ chăn trâu gọi bạn hồi thôn. Không chỉ có trong bài thơ này, trong bài Chiều hôm nhớ nhà ta cũng bắt gặp tâm sự đó.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Ráng chiều gợi tâm trạng nhớ thương. Hoành sơn vốn nổi tiếng hùng vĩ hoang sơ. Trong khung cảnh ấy trước mắt thi nhân cỏ cây hoa lá chen chúc nhau tìm chút ánh sáng mặt trời. Một mình trên đỉnh núi non hiểm trở lại càng cảm thấy trống vắng. Mặc dù cảnh vật hữu tình: cỏ cây, hoa lá, sông nước, biển khơi ... Có lẽ lòng nữ sĩ chợt nhớ, hay nói cho đúng hơn hình ảnh người thân, gia đình, quê hương chợt hiện về. Đây cũng là lúc bữa cơm chiều đang đón đợi, cả nhà sắp tụ họp bên nhau... Vậy mà giờ đây một mình cất bước nơi đất khách quê người.
Đang nao lòng buồn bã, phía xa xa dưới chân đèo xuấi hiện hình ảnh:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Cảnh vật sự sống thật vắng vẻ: mấy bác tiều phu lom khom đốn củi, vài ngôi nhà chợ liêu xiêu. Lối đảo ngữ được vận dụng rất thần tình, hình ảnh này gợi một sự so sánh liên tưởng tới cuộc sống tẻ nhạt, tiêu xơ. Nó khác hẳn chốn kinh kỳ náo nhiệt đua chen. Nhà thơ đi tìm sự sống, nhưng chốn Đèo Ngang khiến cho lòng Bà đầy thất vọng. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh tạo nên hình ảnh tiêu điều xơ xác của cuộc sống chốn đèo Ngang.
Trong sự vắng lặng ấy xa xa nghe có tiếng kêu đều khoan nhặt man mác nhớ thương của quốc quốc, gia gia. Tương truyền sau khi vua Thục là Lưu Bị bại trận trước Lục Tốn của Đông Ngô, ông chạy về thành Bạch Đế và mất tại đó. Sau khi mất Thục Đế đã hoá thành con chim quốc thể hiện niềm đau xót mất nước. Khung cảnh da diết tiếng chim kêu chiều buồn bã gợi ta nhớ những câu thơ:
Đây bốn bề núi núi
Hiu hắt vắng tăm người
Đèo cao và lưng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Tiếng chim quốc, gia gia do chính bà cảm nhận hay là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn nữ sĩ. Đến đây nỗi lòng thi nhân đồng điệu với ông vua Thục muốn níu kéo những kỷ niệm xưa, hoài niệm về một thời dĩ vãng vàng son. Tiếng chim gợi nỗi niềm nhớ nước thương nhà đến nao lòng. Nhớ về gia đình, nhớ về đất nước - phải chăng chính sự hoài niệm về triều đại nhà Lê mà bà từng sống. Thái độ của nữ sĩ là phủ nhận thực tại, tìm về quá khứ. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?” trong hoàn cảnh này điều đó hoàn toàn hợp lý.
Khép lại bài thơ là cả một tâm trạng dồn nén:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Nhà thơ có tâm sự u hoài, đứng trước không gian vời vợi bao la: trời, non, nước. Khung cảnh càng rộng lớn thì con người càng bé nhỏ cô đơn. Và như vậy chỉ có ta với ta, mình với mình mà thôi. Ta là cá nhân nữ sĩ - con người của vật chất đối diện với ta - con người của tâm hồn.
Một mình dối diện với không gian cảnh vật, với cuộc sống và để rồi với chính mình. Trong lòng thi nhân chất chứa bao nỗi niềm biết chia sẻ cùng ai? Một mảnh tình riêng trong một khối tình rộng lớn có chăng mình lại nói chuyện với mình. Nỗi buồn được nhân lên gấp bội. Đây là tâm sự của chính tác giả và cũng là tâm sự của những con người xót xa trước thế sự đổi thay, của những thế hệ từng sống với quá khứ, xót xa với thực tại.
Có rất nhiều những nhà thơ mượn cảnh để tả tình, nhưng có lẽ thành công nhất là Bà Huyện Thanh Quan. Hình ảnh thơ gần gũi, giàu sức biểu cảm. Điều đáng nói ở đây là bà đã lựa chọn được những tín hiệu nghệ thuật đắt giá để từ đó diễn tả tâm sự của chính mình. Trong bài thơ đã có đầy đủ cả tâm hồn, tình cảm, nỗi lòng nhà thơ gửi gắm vào đó. Lời thơ nghe xúc động bồi hồi làm cho người đọc cũng băn khoăn day dứt.
“Qua đèo Ngang” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ được viết khi bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang - một địa danh nổi tiếng ở nước ta với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ man mác, hồn thơ tinh tế và lối thơ điêu luyện, “Qua đèo Ngang” không chỉ là bức tranh thiên niên đầy màu sắc mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của tác giả, có chút gì đó nuối tiếc về thời phong kiến huy hoàng đã dần tàn lụi.
Bài thơ “Qua đèo Ngang” được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mở đầu là hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Chỉ với câu thơ đầu tiên tác giả đã khái quát lên toàn bộ về hoàn cảnh, không gian, thời gian khi viết bài thơ. Cách mở đầu rất tự nhiên, không hề gượng ép, tưởng như tác giả chỉ thuận chân “bước đến” rồi tức cảnh sinh tình trước khung cảnh đèo Ngang trong buổi chiều hoàng hôn “bóng xế tà”. Hình ảnh “bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ “chiều ta bóng xế” gợi cho ta một nét gì đó buồn man mác, mênh mang, có chút nuối tiếc về một ngày đang sắp qua. Trong khung cảnh hoàng hôn đẹp mà buồn ấy, tác giả chú ý đến một vài hình ảnh độc đáo của đèo Ngang “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”. Với việc nhân quá các loại cảnh vật qua động từ “chen” cùng với phép liệt kê hoàng loạt cho ta thấy nét sống động trong bức tranh khung cảnh này. Cỏ cây cùng với đá núi, lá và hoa đua nhau vươn lên đầy sức sống. Những hình ảnh nhỏ bé nhưng sức sống thật mãnh liệt. Trong ánh chiều ta lụi tàn mà còn bắt gặp được những hình ảnh này để lại cho ta thật nhiều suy nghĩ.
Hai câu thực là khi tác giả đang ở trên đèo cao, phóng mắt nhìn về xung quanh, xa hơn những đá núi, cây cỏ để tìm đến bóng dáng con người:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Hình ảnh con người đã hiện ra nhưng dường như chỉ làm bức tranh thêm hiu hắt. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ cũng với từ láy gợi tả để thể hiện lên điều này. Con người ở đây chỉ có “tiều vài chú” kết hợp với từ láy “lom khom” dưới núi. Cảnh vật thì “lác đác” “chợ mấy nhà”. Tất cả quá nhỏ bé so với cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đèo Ngang. Dường như không khí vắng vẻ, hiu quạnh bao trùm lên toàn cảnh vật.
Hai câu luận là nỗi buồn được khắc họa rõ nét qua những âm thanh thê lương:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu thiết tha hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ từ điển tích xưa về vua thục mất nước hóa thành con cuốc chỉ biết kêu “cuốc cuốc”. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều thêm tĩnh lặng. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Ở đây cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ rõ rệt. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp nhân hóa cùng chuyển đổi cảm giác gây ấn tượng mạnh đã cho ta thấy được tấm lòng yêu nước thương nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Hai câu kết, khép lại những cảm xúc cũng như khung cảnh thiên nhiên của bài thơ :
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh vật đèo Ngang thật hùng vĩ khiến tác giả dừng chân không muốn rời. Cái bao la của đất trời, núi non, sông nước như níu chân người thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la hùng vĩ ấy, tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần dâng lên “một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn thì nỗi cô đơn của người lữ khác cũng càng đầy. Một mảnh tình riêng, một nỗi lòng sâu kín, những tâm sự đau đáu trong lòng mà không biết chia sẻ nhắn nhủ với ai. Âm hưởng nhịp điệu câu thơ như một tiếng thở dài nuối tiếc.
“Qua đèo Ngang” là lời nhắn gửi tâm sự của nỗi lòng tác giả đên người đọc. Bài thơ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ đượm nét buồn mà còn là những tiếc nuối, một tấm lòng yêu nước thương dân. Phải thật giàu cảm xúc, thật yêu thiên nhiên cùng con người, Bà Huyện Thanh Quan mới có thể để lại những vần thơ tuyệt tác như vậy.

Tham khảo nha em:
Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là một người phụ nữ hội tụ tất cả phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Trước hết, Vũ Nương là một người vợ yêu thương chồng hết mực. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chỉ mong chồng trở về bình an lành lặn chứ không hè mong tước phong hầu trở về. Khi chồng đi lính, mẹ chồng ở nhà ốm nặng, nàng cũng chăm sóc vô cùng chu đáo. Đến khi mẹ chồng mất nàng lo ma chay tế lễ cẩn thận như đối với chính cha mẹ đẻ mình. Không chỉ là một người vợ yêu chồng, một người con dâu hiếu thảo mà Vũ Nương còn là một người mẹ yêu thương con hết mực. Vì sợ bé Đản không cảm nhận được tình thương của cha mà Vũ Nương đã trỏ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Đồng thời, Vũ Nương còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một cuộc đời bị mọi người xỉ vả. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng. Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận đầy bất hạnh.
Nhân vật Tử Hư trong truyện “Tử Hư du tiên” là hình tượng tiêu biểu cho khát vọng vượt thoát trần tục, tìm đến cõi tiên để đạt tới sự tự do tuyệt đối của con người trong văn học phương Đông. Tử Hư mang vẻ đẹp của một con người thanh cao, thoát tục, không bị ràng buộc bởi lợi danh hay những ham muốn tầm thường của thế gian. Khi đến thăm Lô Sơn, Tử Hư thể hiện lòng ham mê khám phá, yêu thiên nhiên và luôn khao khát tìm đến những điều cao đẹp, huyền diệu. Tuy nhiên, điều khiến Tử Hư trở nên đáng quý là ở chỗ, sau hành trình gặp gỡ và đàm đạo với vị tiên, ông đã nhận ra rằng “đạo tiên” không phải là thứ có thể cưỡng cầu mà phải tự giác ngộ. Cuối cùng, ông quay trở về trần thế, nhưng không còn vướng bận bụi trần, mà sống một đời ung dung, tự tại, giữ được sự an nhiên trong tâm hồn. Tử Hư là biểu tượng cho vẻ đẹp của một tâm hồn thanh sạch, của con người biết sống hài hòa giữa mộng và thực, giữa lý tưởng và đời sống, đồng thời thể hiện triết lý sâu sắc của Lão Trang: sống thuận theo tự nhiên, buông bỏ để được tự do.
Dưới ngòi bút tài hoa của nhà văn Nguyễn Dữ trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, nhân vật Tử Hư hiện lên như một hình tượng rực rỡ về người trí thức thời phong kiến, mang trong mình vẻ đẹp của trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần chính nghĩa. Là một thầy đồ nghèo nhưng giàu khí phách, Tử Hư không chỉ uyên bác mà còn can đảm đối mặt với thế lực ma quái mà không hề nao núng. Dẫu bị lôi vào chốn âm phủ đầy rẫy hiểm nguy, ông vẫn giữ được sự điềm tĩnh, sáng suốt và niềm tin vào công lý. Tử Hư mang vẻ đẹp của một con người trọng lẽ phải, không mưu cầu danh lợi, sống thanh cao giữa thời đại hỗn mang. Đặc biệt, ông còn là biểu tượng của sức mạnh tinh thần, dám đối mặt với điều phi lý, dám nói thẳng, nói thật giữa chốn u minh. Qua nhân vật này, Nguyễn Dữ không chỉ phản ánh khát vọng công lý mà còn ca ngợi nhân cách cao đẹp, khí chất bất khuất của người trí thức chân chính. Tử Hư là minh chứng cho sự chiến thắng của lẽ phải trước tà ác, là ánh sáng soi đường cho những tâm hồn thiện lương.