K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 7

“Chúng ta đang sống trong một thời đại mà con người có thể bay lên sao Hỏa, nhưng đôi khi lại không thể hiểu nổi chính mình.” Câu nói này không chỉ là một nhận định, mà còn là một lời cảnh tỉnh sâu sắc về mối quan hệ giữa sự phát triển của tri thức và những khủng hoảng trong đời sống tinh thần của con người hiện đại. Trong khi trí tuệ và công nghệ đưa nhân loại lên tầm cao mới, thì tinh thần – phần sâu kín nhất trong mỗi con người – lại đang chịu nhiều tổn thương, mất phương hướng và đôi khi trở nên xa lạ với chính bản thân mình.

Không thể phủ nhận rằng tri thức nhân loại đang phát triển vượt bậc. Chúng ta đã khám phá vũ trụ, chế tạo trí tuệ nhân tạo, lập trình robot, kết nối toàn cầu qua mạng internet và giải mã bộ gen người. Những thành tựu ấy là kết quả của hàng thế kỷ lao động miệt mài và sáng tạo không ngừng của con người. Khoa học và công nghệ ngày nay không chỉ phục vụ cuộc sống mà còn định hình cả tương lai của nhân loại.

Thế nhưng, trong ánh hào quang của tri thức, con người dường như đang đánh mất một điều gì đó rất quan trọng: chính mình. Sự phát triển quá nhanh của xã hội hiện đại khiến con người quay cuồng trong guồng quay của công việc, áp lực thành tích, nỗi sợ bị bỏ lại phía sau và cuộc chạy đua không ngừng nghỉ để “trở nên tốt hơn”. Ta dễ dàng thấy những biểu hiện của khủng hoảng tinh thần: trầm cảm, lo âu, cảm giác cô đơn dù sống giữa đám đông, sự đứt gãy trong các mối quan hệ và khoảng trống trong đời sống ý nghĩa.

Con người hiện đại biết nhiều, nhưng không hẳn hiểu sâu. Chúng ta có thể truy cập hàng triệu thông tin chỉ trong vài giây, nhưng lại không biết điều gì thực sự quan trọng với mình. Chúng ta có thể xây dựng một thành phố thông minh, nhưng lại gặp khó khăn khi lắng nghe và thấu hiểu một người thân yêu. Ta có thể viết những thuật toán tinh vi, nhưng không giải nổi bài toán của cảm xúc, của giá trị sống, của sự cân bằng nội tâm.

Nguyên nhân của khủng hoảng tinh thần này có thể đến từ chính sự lệch pha trong phát triển: tri thức – đặc biệt là khoa học kỹ thuật – phát triển nhanh hơn khả năng thích nghi tinh thần, đạo đức và cảm xúc của con người. Khi con người bị cuốn vào thế giới ảo, những giá trị thật trở nên mong manh và bị lãng quên. Khi thành công được đo bằng tiền bạc hay danh vọng, thì lòng tự trọng, sự cảm thông hay thấu hiểu lại trở nên “xa xỉ”.

Vậy con người cần làm gì để không trở thành “kẻ mù quáng giữa ánh sáng tri thức”? Câu trả lời là cần sự cân bằng giữa phát triển trí tuệ và chăm sóc đời sống tinh thần. Học cách lắng nghe bản thân, dành thời gian để nghỉ ngơi, kết nối với thiên nhiên, duy trì những mối quan hệ lành mạnh và tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Giáo dục cũng cần được điều chỉnh để không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn – dạy con người biết yêu thương, bao dung và sống có trách nhiệm.

Tóm lại, thời đại chúng ta đang sống là thời đại của những kỳ tích về tri thức, nhưng cũng là thời đại của những thách thức tinh thần chưa từng có. Câu nói mở đầu như một lời nhắc nhở: tiến bộ không đồng nghĩa với hạnh phúc, và để thật sự phát triển, con người không chỉ cần hiểu thế giới – mà còn cần hiểu chính mình. Chỉ khi đó, tri thức mới thực sự trở thành ánh sáng dẫn đường chứ không phải là ngọn đèn chói lóa khiến ta quên mất con đường về.

Tích cho mik nha

2 tháng 1 2022

D đúng

Tham khảo:

 

Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV là lịch sử chống quân xâm lược phương Bắc. Đó là lịch sử của 2 lần chiến thắng quân Tống, 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông hùng mạnh và 10 năm gian khổ chống quân Minh ... mà những chiến công hiển hách Bạch Đằng, Như Nguyệt, Chi Lăng ... vẫn còn vang dội đến tận ngày nay. Chính vì vậy, văn học thời kỳ đó đã phản ánh khá rõ nét tư tưởng yêu nước cùng lòng tự hào sâu sắc của dân tộc ta, nhất là qua ba văn bản Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ và Nước Đại Việt ta.

Trước hết, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã bày tỏ ý nguyện muốn dời đô từ Hoa Lư về Đại La để đóng đô ở nơi “trung tâm trời đất,mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, để “trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng dân”. Như vậy, tư tưởng yêu nước đã được thể hiện ở việc gắn liền sự bền vững của một triều đại với ý nguyện của muôn dân. Khi nhìn lại các triều đại trước, ông đã rất đau xót cho số vận quá ngắn ngủi, để cho “trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi”. Từ đó ta thấy rằng, xây dựng đất nước là đem lại hạnh phúc, thái bình cho dân. Xưa nay, thủ đô là trung tâm về văn hoá , chính trị của một đất nước. Nhìn vào thủ đô là nhìn vào sự thịnh suy của một dân tộc. Thủ đô có ý nghĩa rất lớn. Dường như lịch sử của các nước có nền văn minh lâu đời đều có các cuộc dời đô như thế. Mỗi lần dời là một thử thách của cả dân tộc.

 

Đó phải là quyết định của người có đầu óc ưu tú nhất thời đại. Có thể nói, với trí tuệ anh minh, với lòng nhân hậu tuyệt vời, Lý Công Uẩn đã chỉ ra lợi thế về lịch sử, địa lý, hình thế núi sông, về sự thuận tiện trong giao lưu văn hóa và phát triển mọi mặt của thành Đại La, nhưng ông cũng không quên chỉ ra những thuận tiện cho nhân dân. Đặc biệt, ông khẳng định “đây quả thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước,cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Những lời lẽ ấy tuy giản dị nhưng lại thấm đẫm niềm tự hào khi nói về đất nước, thể hiện một khao khát mãnh liệt đó là thống nhất giang sơn về một mối. Trong lời khẳng định ấy, ta còn đọc được khí phách của một dân tộc: Đại La sẽ là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Giá trị chủ yếu của bài là tư tưởng yêu nước. Tiếng nói của tác giả là tiếng nói của nhân dân, của thời đại và khát vọng về một đất nước độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh.

Tiếp theo triều đại nhà Lý rất vẻ vang với sự khởi thuỷ là vị vua anh minh Lý Thái Tổ, nước Đại Việt viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của mình ở thời đại nhà Trần với đầy những chiến công oanh liệt. Những người lãnh đạo thời kì này đều ghi tên mình vào sử sách. Trần Quốc Tuấn , tác giả “Hịch tướng sĩ” là một ví dụ. Đọc “Hịch Tướng Sĩ” -một áng thiên cổ hùng văn, ta cứ ngỡ như được nghe tiếng nói của cha ông, của non nước. Nó nồng nàn một tinh thần yêu nước, nó biểu hiện một lòng căm thù giặc sâu sắc, một ý chí quyết chiến quyết thắng quân thù không chỉ là của riêng Trần Quốc Tuấn mà là kết tụ trong đó những ý nguyện tình cảm của dân tộc. Trước tai họa đang đến gần: quân Mông - Nguyên đang lăm le xâm lược lần thứ hai với quy mô chưa từng thấy hòng không cho một ngọn cỏ của nước Đại Việt được mọc dưới vó ngựa của 50 vạn quân, Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch” để kêu gọi tướng sĩ một lòng, chuẩn bị đương đầu với cuộc chiến sống còn.

 

Những lời lẽ đanh thép mà chan chứa tình cảm, những lí lẽ sắc bén mà đi vào lòng người đã làm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở các tướng sĩ, chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước, chỉ ra cho tướng sĩ thấy tội ác của bọn sứ giặc, và những việc cần làm để chống giặc. Ông đã tự bày tỏ lòng mình, lòng căm giận như trào ra đầu ngọn bút, thống thiết và sâu lắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau của Trần Quốc Tuấn chính là nỗi đau của dân tộc khi độc lập tự do của đất nước bị xâm phạm, là tinh thần của một thời đại “sát thát”, lòng yêu nước của tác giả cũng là của cả dân tộc Đại Việt anh hùng. Cùng với sự phê phán nghiêm khắc thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn còn chỉ bảo ân cần những việc cần làm, đó là đề cao cảnh giác, “huấn luyện quân sĩ,tập dượt cung tên”. Đó là xác định duy nhất một con đường là tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, mang lại tự do cho nhân dân.

Kế thừa và phát triển tư tưởng yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong “Hịch tướng sĩ”, vào năm 1428 sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn kết thúc thắng lợi, Nước Đại Việt ta (trích Bình Ngô đại cáo) của Nguyễn Trãi được công bố-một bản hùng ca đồng thời qua thi pháp, ngôn từ không chỉ là một áng văn nghị luận mẫu mực mà đã thể hiện hệ tư tưởng yêu nước hoàn thiện ở một tầm cao mới. Với giọng văn đầy hào khí, Nguyễn Trãi đã nêu cao sức mạnh quật cường của dân tộc "Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô - Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã", qua dẫn liệu này chúng ta thấy nước Đại Việt đã hội đủ các điều kiện để trở thành một dân tộc quốc gia văn hiến:

 

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục bắc nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

Những điều trên cho ta thấy rõ niềm tin của dân tộc vào cuộc kháng chiến chính nghĩa, niềm tự hào trước truyền thống oanh liệt của dân tộc. Theo quan điểm của tác giả thì chống xâm lược là chính nghĩa, cứu dân cứu nước là đại nghĩa. Đây có thể xem là một nguyên lý đạo đức, đã góp phần hình thành nên hệ tư tưởng yêu nước truyền thống của nhân dân ta. Trong Nước Đại Việt ta, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng vì dân, quan tâm trước hết đến đời sống nhân dân, đến hạnh phúc của mọi người. Đây chính là một tư tưởng lớn nhất đã được thiên cổ hùng văn này thể hiện:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Ý tưởng đó là sự nối tiếp lời tâm huyết trong di chúc của Trần Hưng Đạo cho Vua Trần: "Khoan thư sức dân. Lấy kế bền gốc sâu rễ là thượng sách giữ nước". Đây chính là tư tưởng chính trị quan trọng trong chính sách quản lý đất nước. Qua ngôn ngữ thể hiện trong ba văn bản trên, tư tưởng yêu nước đã được phản ánh rất rõ nét:

Yêu nước, trước hết cần khẳng định nước ta là một dân tộc, quốc gia văn hiến, có đầy đủ các quyền, ngang hàng với quốc gia dân tộc khác, đặc biệt là "Bắc quốc".

Cơ sở tư tưởng yêu nước thể hiện qua việc tố cáo tội ác dã man của quân xâm lược để nung nấu ý chí căm thù giặc, đồng thời tô đậm những chiến công mà tổ tiên đã giành được trong lịch sử để không ngừng nâng cao ý thức tự hào dân tộc.

Yêu nước đi đôi với xả thân cứu nước kiên quyết giành và giữ vững chủ quyền dân tộc. Đây là nguyên tắc đạo đức trong lối sống của người Đại Việt.

Yêu nước là tôn trọng sự sống (hiếu sinh) của mình cũng như của người khác, luôn thể hiện tính bao dung của người Việt. Từ đó mục tiêu của cuộc chiến đấu là giành được độc lập cho dân tộc, đem lại hòa bình, hạnh phúc cho muôn dân. Yêu nước còn là yêu dân (thân dân), tức là quan tâm đến đời sống nhân dân, tạo điều kiện giúp họ sống khá hơn. Đây cũng là kế sách trong trị vì, quản lý đất nước.

 

Nhờ hình thành nền văn học phong phú, mang đậm tính chất dân gian và đặc biệt là nhờ sự hình thành nền văn học yêu nước, mà nổi lên là những áng thiên cổ hùng văn (như đã nêu ở trên) nên những giá trị văn hóa nói chung và giá trị tinh thần thời kỳ Đại Việt nói riêng đã được thể hiện và lưu truyền. Đây chính là sức mạnh của lịch sử dân tộc Việt Nam, là sự tự hào, là sự tiếp ứng sức mạnh cho các thế hệ. Ngày nay, chính các giá trị tinh thần ấy phải được biến thành xung lực mạnh mẽ, góp phần xây dựng đất nước.

3 tháng 1 2022

A

3 tháng 1 2022

A

7 tháng 10 2017

Cuối những năm 80 của Thế kỉ XX, kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng kéo dài. Năm 1986 Nhà nước đã đề ra chính sách Đổi mới, đưa nền kinh tế nước ta thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kéo dài, từng bước ổn định và phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong công nghiệp: tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp – xây dựng; hình thành một số ngành công nghiệp trọng điểm, các trung tâm công nghiệp mới, các khu công nghiệp; thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực công nghiệp…

=> Như vậy, chính sách phát triển của Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, công nghiệp nước ta giai đoạn này.

Đáp án cần chọn là: D

19 tháng 12 2016

D

19 tháng 12 2016

D

 

27 tháng 2 2022

B (e đoán thế)

27 tháng 2 2022

C

4 tháng 2 2021

Nhận xét nào dưới đây là đúng về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới?( 1919-1939)

A. Phát triển mạnh nhưng không bền vững.

B. Phát triển chậm chạp và liên tục suy thoái.

C. Phát triển nhanh nhưng khủng hoảng trầm trọng

D. Phát triển mạnh nhưng không đều giữa các nước đế quốc.

1 Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật thế giới có tác động tích cực gì đến đời sống nhân loại?A. Thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất.B. Thỏa mãn nhu cầu sáng tạo của con người.C. Giúp đời sống vật chất và tinh thần của con người tốt đẹp hơn.D. Trở thành phương tiện chiến tranh gây thảm họa cho nhân loại.2 Nhà khoa học A. Nô-ben nói: “Tôi hi vọng rằng nhân loại sẽ...
Đọc tiếp

1 Sự phát triển của khoa học - kĩ thuật thế giới có tác động tích cực gì đến đời sống nhân loại?

A. Thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất.

B. Thỏa mãn nhu cầu sáng tạo của con người.

C. Giúp đời sống vật chất và tinh thần của con người tốt đẹp hơn.

D. Trở thành phương tiện chiến tranh gây thảm họa cho nhân loại.

2 Nhà khoa học A. Nô-ben nói: “Tôi hi vọng rằng nhân loại sẽ rút ra được từ những phát minh khoa học nhiều điều tốt hơn là điều xấu”. Câu nói này có ý nghĩa gì?

A. Phát minh khoa học có hai mặt.

B. Những phát minh khoa học được tạo ra chỉ có điểm tích cực.

C. Hạn chế của những phát minh khoa học là điều không tránh khỏi.

D. Tính tốt xấu của phát minh khoa học phụ thuộc vào mục đích sử dụng của con người.

10
2 tháng 12 2021

giúp mik câu cuối mn

2 tháng 12 2021

1.C

2.D

7 tháng 11 2021

Hình thành sớm, phát triển chậm, quá trình khủng hoảng, suy vong kéo dài.

7 tháng 11 2021

Hình thành sớm, phát triển chậm, quá trình khủng hoảng, suy vong kéo dài.