phân tích truyện ngắn ''áo tết''
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Đoạn trích thể hiện tư tưởng nhân đạo đặc sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương của tác giả đối với những người khốn khổ, bất hạnh. Đoạn trích chất chứa bao nỗi niềm thống khổ của một số phận có cuộc sống éo le, thể hiện khát vọng về cuộc sống với bao tình yêu thương giữa người với người.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng
Tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng:
+Trước khi chưa nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
+ Tin làng chợ Dầu theo giặc chưa được cải chính
+ Sau khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tham khảo:
Nguyễn Thành Long là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và ký nổi bật trong những năm 60 của thế kỷ XX. Những tác phẩm của ông không pha chất ký và mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa là một tác phẩm tiêu biểu cho nét phong cách đó của ông.
Lặng lẽ Sapa là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng Lào Cai vào mùa hè năm 1970 của nhà văn. Qua tác phẩm nhà văn muốn giới thiệu cho chúng ta về một mảnh đất giàu đẹp ở phía tây Tổ Quốc. Nơi đó có những con người lao động bình dị đang miệt mài cống hiến thầm lặng cho quê hương, đất nước.
Khi đọc nhanh tiêu đề truyện, người đọc cứ ngỡ rằng nhà văn sẽ đi sâu vào việc khắc họa một bức tranh thiên nhiên, một vùng đất thơ mộng. Nhưng đằng sau những dãy núi bạt ngàn ấy này là cuộc sống của những con người lao động trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết đang cống hiến tài, sức cho quê hương. Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
Tình huống truyện được Nguyễn Thành Long xây dựng đặc sắc. Đó là cuộc gặp gỡ giữa những người khách trên chuyến xe với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn ở Sa Pa. Đó là cách để câu chuyện được phát triển tự nhiên mà hình ảnh các nhân vật được nổi bật qua cái nhìn đánh giá khách quan hơn. Đồng thời làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, đó là ngợi ca những con người lao động bình thường mà đáng quý.
Anh thanh niên là nhân vật chính nhưng không xuất hiện với một cách trực tiếp mà xuất hiện qua lời giới thiệu của bác lái xe với ông họa sĩ và cô gái khi họ nghỉ ngơi trên dọc đường. Nhân vật hiện lên tự nhiên, chân thực, khách quan qua cái nhìn nhận và đánh giá của nhân vật khác. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh thanh niên và ông họa sĩ tuy ngắn ngủi nhưng người đọc đủ cảm nhận sâu sắc hoàn cảnh sống, làm việc và những phẩm chất tốt đẹp của anh. Anh thanh niên được gọi một cái tên vô cùng đặc biệt là người "cô đồng nhất thế gian". Khi hoàn cảnh sống của anh chỉ quanh năm suốt tháng bốn bề là cỏ cây, mây núi. Công việc của anh là đo gió, đo mưa đo nắng. Công việc đòi hỏi có sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Đặc biệt nơi đây còn có thời tiết rất khắc nghiệt. Thế nhưng anh không hề cảm thấy buồn tẻ chán nản mà rất có trách nhiệm.
Anh coi công việc là người bạn đồng hành với mình trong cuộc sống. Đối với anh hạnh phúc là được cống hiến tận tụy với công việc. Anh rất tự hào khi mình đã góp phần thắng lợi vào đất nước trong kháng chiến chống Mỹ. Chính những suy nghĩ và thái độ sống tích cực đã giúp anh vượt qua khó khăn trong hoàn cảnh sống và công việc của mình.
Trong giao tiếp với mọi người, anh toát lên một phong cách đẹp, một nét đẹp trong từng cử chỉ. Hành động và lời nói khiêm tốn, chu đáo và lịch sự. Anh tặng củ tam thất cho vợ bác lái xe bị ốm, tặng hoa và tặng trứng cho cô kỹ sư nông nghiệp và ông họa sĩ già. Anh thanh niên chính là hình ảnh tiêu biểu, đại diện cho những con người ở Sapa, là chân dung của người lao động mang trong mình sự hiểu biết tri thức, sống tận tụy với công việc.
Bên cạnh hình ảnh anh thanh niên, ta còn thấy những người lao động khác. Họ cũng có một lối sống đẹp, sự cống hiến thầm lặng trong công việc, làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Đó là ông kỹ sư nông nghiệp, anh kỹ sư nghiên cứu bản đồ sét. Tất cả những con người ấy đều cần cù lao động, chịu thương, chịu khó với một sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, có tinh thần trách nhiệm với sự phát triển của đất nước quê hương.
Bên cạnh đó ta còn thấy vai trò của những nhân vật phụ như bác lái xe, ông họa sĩ, cô kỹ sư nông nghiệp. Đây là những nhân vật có vai trò không thể thiếu trong diễn biến cốt truyện. Nhờ có bác lái xe mà diễn biến chuyển được mở một cách tự nhiên. Đây chính là cầu nối gặp gỡ giữa người miền xuôi với người miền ngược, tạo nên cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị. Ông họa sĩ chính là sự hóa thân của nhà văn khi phát hiện ra chân lý của nghệ thuật và cảm hứng. Còn cô kỹ sư chính là ảnh của thế hệ trẻ tràn đầy nhiệt huyết. Cô đã tìm được nguồn động lực trong công việc của mình, từ đó vững tin hơn trong cuộc sống với sự lựa chọn nghề nghiệp,
Chuyện đã xây dựng tình huống truyện hợp lý, cách kể chuyện tự nhiên. Tác phẩm có sự kết hợp giữa trữ tình và bình luận. Đây là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp phần thành công của truyện.
Đọc Lặng lẽ Sa Pa ta thấy nổi bật lên trên những hình ảnh núi rừng hùng vĩ là những con người luôn cần mẫn lao động và cống hiến hết mình cho tổ quốc.
(link: https://luatminhkhue.vn/phan-tich-truyen-ngan-lang-le-sa-pa-cua-nguyen-thanh-long.aspx)
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Ý nghĩa tư tưởng đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
- Được sống là đáng quý, nhưng sống đúng là mình, sống trọn vẹn nhưng giá trị mình muốn và theo đuổi còn quý giá hơn
- Con người phải luôn luôn biết đấu tranh nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý
- Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách, vươn tới giá trị tinh thần cao
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”
- Xây dựng qua việc phát hiện ra những nghịch lý của Phùng –nghệ sĩ săn tìm cái đẹp bên bờ biển, ở tòa án huyện
- Người nghệ sĩ phát hiện ra hiện thực trớ trêu, nghịch cảnh, chiếc thuyền đẹp như ngư phủ lại bước ra một người đàn bà xấu xí, cam chịu, lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như cách giải tỏa
- Nghịch lý người đàn bà hàng chài van xin được sống với người chồng vũ phu. Câu chuyện về cuộc đời đã giúp cho nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu “ngộ” ra những chân lí, sâu sắc về cuộc sống
Ý nghĩa:
- Tư tưởng nghệ thuật: bên ngoài và bản chất đôi khi đối lập. Không phải lúc nào cái đẹp cũng thống nhất với cái Thiện, cần nhìn đa chiều
+ Người nghệ sĩ cần gần gũi với cuộc đời, cần rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật
+ Nghệ sĩ không nhìn về cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, biết trăn trở về con người
- Giá trị hiện thực: cuộc sống nghèo đói, tăm tối dẫn tới nạn bạo lực gia đình. Cần bảo vệ quyền sống của con người.
+ Giá trị nhân đạo: Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của người lao động nghèo trong xã hội. Lên án, đấu tranh cái xấu, cái ác.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen ri là một truyện ngắn vô cùng thành công thể hiện tinh thần nhân văn cao của tác giả với những số phận nghèo khổ trong cuộc sống.
Nhân vật Giôn xi là một người gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Cô là một sinh viên trường mỹ thuật, hoàn cảnh vô cùng khó khăn, sống cùng với người bạn của mình là Xiu. Một lần Giôn xi không may bị mưa, nên vướng bệnh phong hàn.
Giôn xi thật ra chỉ là một người mắc bệnh viêm phổi, đáng lý ra sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như được chạy chữa thuốc thang. Nhưng do gia cảnh khó khăn, nên không có tiền chạy chữa thuốc men, bệnh tình ngày một nặng hơn.
Giôn xi tuyệt vọng thường ngồi bên chiếc giường gần cửa số đếm những chiếc lá rơi. Giôn xi thường nghĩ nếu một ngày chiếc lá cuối cùng rơi mất thì cô cũng chết. Sự tuyệt vọng của Giôn xi đã tới tận cùng nên cô mới tin vào một điều vô lý như vậy, nương tựa tinh thần của mình vào những chiếc lá.
Nhà văn On Hen ri đã gửi gắm tấm lòng nhân đạo của mình vào nhân vật Giôn xi. Trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng là một tác phẩm vô cùng xuất sắc.
Một xã hội với những người nghệ sĩ nghèo nhưng có tấm lòng vô cùng nhân đạo. Ông cụ già Bơ Men là một người yêu nghệ thuật ông thường mơ ước có thể sáng tác một tác phẩm để đời. Nhưng cuộc sống nghèo khổ đã khiến ông phải đi làm mẫu vẽ cho những nghệ sĩ mới vào nghề kiếm vào đồng tiền lẻ sống qua ngày.
Giôn xi và Xiu là người bạn cùng học một trường cùng thuê một phòng trọ. Từ này Giôn xi bị ốm Xiu đã chăm sóc bạn của mình vô cùng tốt. Nhưng Giôn xi đã mất đi tinh thần, mất hết đi tinh thần chống chọi lại với sự sống.
Nàng đã mất hết nghị lực chống chọi với cuộc sống, chỉ còn chờ đợi cái chết đến với mình, phó mặc sự sống của đời mình vào những chiếc lá, không gian trở nên vô cùng nhỏ bé, sự vật quá tĩnh lặng, trong đôi mắt, là sự tuyệt vọng, không có chút dấu hiệu nào của sự sống.
Chính thể trạng tinh thần, nghị lực yếu đuối, làm cho Giôn xi có những suy nghĩ lạ lùng, phó mặc thân mình cho những chiếc lá bị quan tuyệt vọng. Giôn xi luôn có cảm giác cái chết đang đến thật gần.
Bệnh của Giôn xi ngày càng nặng cô ít hy vọng sống lại được. Giôn xi bị ám ảnh bởi những chiếc lá đang lìa cành. Một ngày chỉ còn lại duy nhất một chiếc lá trên cành Giôn xi nghĩ rằng chỉ qua đêm nay thôi thì chiếc lá cuối cùng sẽ rụng mất và cô cũng như chiếc lá kia sẽ phải chết.
Nhưng hôm sau, qua một giấc ngủ dài mộng mị, Giôn xi đã tỉnh dậy và việc đầu tiên cô làm là mở cửa sổ, những chiếc lá kia vẫn còn trên cành, những ngày hôm sau chiếc lá vẫn vẹn nguyên. Việc chiếc lá cuối cùng dũng cảm chống chọi lại với cả một mùa đông lạnh giá mưa tuyết, khiến cho Giôn xi bắt đầu có tinh thần trở lại. Cô cũng bắt đầu hy vọng, mong mình sẽ khỏi bệnh, có thể đi khắp nơi và vẽ những bức tranh đẹp.
Nhưng chiếc kia vẫn tồn tại theo thời gian, rồi một ngày Giôn xi đã khỏi bệnh, chiếc lá tầm xuân vẫn còn đó. Theo thời gian Giôn xi đã khỏe lại. Một ngày cô có thể tới bên cạnh chiếc lá, cô nhìn chiếc lá dũng cảm đó một lần thật kỹ thì biết rằng đó chính là một bức tranh.
Sau khi, tìm hiểu Giôn xi biết được là bức tranh chiếc lá cuối cùng chính là do ông lão Bơ Men và ông ấy đã đứng suốt một đêm giữa mưa tuyết để vẽ bức tranh thành công, ngày hôm sau ông cụ Bơ Men khốn khổ đó đã qua đời.
Nhưng sự hy sinh đó của ông không hề uổng phí bởi tác phẩm là ông Bơ Men vẽ đã mang lại niềm tin, sự hồi sinh cho Giôn xi khiến cô có sức mạnh chiến thắng bệnh tật.
Nghệ thuật chân chính mang lại sự hồi sinh, cho con người đó chính là chân lý mà tác phẩm chiếc lá cuối cùng mang tới cho người đọc, thể hiện sự nhân văn nhân đạo của tác giả O Hen ri.
Mình không ghi ngắn được cậu ơi, do thói quen đó T-T
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Lợn cưới, áo mới là một trong những truyện cười đặc sắc của kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện chế giễu những người có tính hay khoe của. Tính xấu ấy biến người khoe của thành trò cười cho thiên hạ.
Truyện ngắn gọn như một màn hài kịch nhỏ, kể lại cuộc tranh tài thú vị, bất ngờ giữa hai anh có tính hay khoe, mà của đem khoe chẳng đáng là bao. Một anh khoe con lợn cưới bị sổng chuồng và một anh khoe chiếc áo mới may.
Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đó là lúc nhà anh ta có việc lớn (đám cưới), lợn để làm cỗ cưới lại bị sổng mất, nghĩa là trong lúc việc nhà đang bận bịu và bối rối, một tình huống tưởng như người trong cuộc không còn tâm trí nào để khoe khoang.
Khi đi tìm lợn, lẽ ra anh ta chỉ cần hỏi: Bác có thấy con lợn của tôi chạy qua đây không ? Hoặc nói rõ con lợn ấy là lợn gì, to hay nhỏ, trắng hay đen, thi anh ta lại hỏi: Bác có thấy con lợn CƯỚI của tôi chạy qua đây không? Câu hỏi thừa từ cưới, vì từ cưới không phải là từ thích hợp để chỉ đặc điểm của con lợn bị sổng và cũng không phải là thông tin cần thiết đối với người được hỏi. Người được hỏi không cần biết con lợn ấy được dùng vào việc gì (đám cưới hay đám tang). Thế nhưng nó lại rất quan trọng đối với anh đi tìm lợn vì nó là cái cớ để anh ta khoe con lợn của mình. Thành ra câu hỏi của anh ta vừa có mục đích tìm lợn, vừa có mục đích khoe của, nhưng để khoe của là chính.
Anh có áo mới cũng thích khoe đến mức may được cái áo, không đợi ngày lễ, ngày Tết hay đi chơi mới mặc mà đem ra mặc ngay. Tính thích khoe của đã biến anh ta thành trẻ con. (Già được bát canh, trẻ được manh ảo mới). Nhưng trẻ con thích khoe áo mới thì đó là lẽ thường tình bởi chúng ngây thơ, trong sáng; còn nhân vật trong truyện cười này mặc áo mới với mục đích là để khoe của.
Cách khoe của anh ta cũng thật buồn cười: đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi qua người ta khen. Vì nôn nóng khoe áo mới mà anh ta đã đứng mãi từ sáng tới chiều, kiên nhẫn đợi để khoe bằng được. Đợi mãi chẳng thấy ai hỏi đến, anh ta tức lắm. Đang lúc cụt hứng vì không có ai để mà khoe áo mới thì anh chàng mất lợn chạy tới hỏi thăm. Mừng như bắt được vàng, anh có áo mới vội giơ ngay vạt áo ra để khoe và trả lời rằng: Từ lúc tôi mặc CÁI ÁO MỚI này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả. Đúng ra, anh ta chỉ cần đáp là có nhìn thấy hay không nhìn thấy, nhưng anh ta lại cố tình khoe áo mới cả bằng điệu bộ lẫn lời nói. Đấy là những yếu tố thừa nhưng lại là nội dung, mục đích thông báo chính của anh ta.
Tính khoe của của nhân vật được đẩy tới tột đỉnh bằng nghệ thuật cường điệu, bởi trên đời này không có ai lại khoe của một cách vô duyên và trơ trẽn như anh lợn cưới và anh áo mới.
Đọc truyện chúng ta bật cười vì nhiều lẽ:
Trước hết là về hành động, lời nói của nhân vật. Của chẳng đáng là bao, chỉ là chiếc áo, con lợn mà vẫn thích khoe. (Đây cũng chính là đặc điểm của loại người này). Sau đó là lời khoe và cách khoe đều quá đáng và phi lí.
Tác giả dân gian đã tạo ra cuộc ganh đua gay cấn trong việc khoe của giữa hai nhân vật. Người đi tìm tợn sống mà cứ nhấn mạnh là lợn cưới. Kẻ trả lời là không thấy lợn thì lại cố đưa thêm cái áo mới của mình vào. Cái trái tự nhiên, không hợp với lẽ thường xuất hiện khiến cho tiếng cười chế giễu vang lên.
Anh áo mới đứng hóng ở cửa, kiên nhẫn đợi suốt từ sáng đến chiều mà vẫn chưa khoe được áo. Đang tức tối thì lại bị anh lợn cưới khoe của trước. Anh áo mới đã không bỏ lỡ cơ hội cả ngày chỉ có một lần để khoe áo mới trước mặt anh lợn cưới. Kết thúc bất ngờ của truyện tạo cảm giác rất hấp dẫn và thú vị cho người đọc.
Tính khoe của là thói thích tỏ ra, trưng ra cho mọi người biết là mình giàu có. Đây là thói xấu thường thấy ở những người mới giàu (giàu xổi), thích học đòi. Nó biểu hiện qua cách ăn mặc, nói năng, giao tiếp, cách trang sức và xây cất, bài trí nhà cửa lố lăng, kệch cỡm.
Tính khoe của là thói xấu của con người nói chung nhưng ở truyện này nó lại mang một sắc thái khá đặc biệt. Nhân vật trong truyện không phải là khoe tài, khoe lộc, khoe trí tuệ, học vấn, công lao đóng góp hay địa vị trong xã hội mà là khoe những thứ tầm thường, nhỏ nhặt, chẳng đáng đem khoe.
Khi khoe của đã trở thành một thói quen, một nhu cầu cần thiết đến mức không khoe không chịu được thì nó sẽ là thói xấu và thói xấu ấy làm cho những người xung quanh khó chịu. Câu chuyện dí dỏm Lợn cưới, áo mới là một bài học bổ ích cho tất cả chúng ta.
Truyện cười là một thể loại truyện tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam, thông qua việc sáng tạo ra những câu chuyện cười, những tình tiết gây cười, ông cha ta luôn có một thông điệp, quan niệm nào đó muốn truyền tải lại cho người đời sau. Thông qua sự châm biếm là hiện thực được chỉ ra sắc nét, tiếng cười trong những câu chuyện này chính là phương tiện để đả kích những thói hư, tật xấu trong xã hội. Vì vậy mà những câu chuyện dân gian tuy được sáng tác bởi lực lượng lao động dân gian, lưu truyền chủ yếu thông qua phương thức truyền miệng nhưng lại có độ hàm súc cao, chứa đựng những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Một trong những tác phẩm truyện cười tiêu biểu, đó chính là “Lợn cưới áo mới”.
“Lợn cưới áo mới” là câu chuyện đả kích về một tính xấu của con người, đó là sự khoe khoang, khoác lác. Những tình huống hài hước trong câu chuyện được các tác giả dân gian xây dựng rất khéo léo, tình tiết được đẩy lên cao trào khi tiếng cười ròn rã nhất. Tuy nhiên, sau tiếng cười ấy là một bài học, một triết lí được truyền tải, nhằm tác động vào sự nhận thức, vào lối sống của con người. Truyện “Lợn cưới áo mới” kể về một người đàn ông có tính hay khoe của. Mua một chiếc áo mới, anh ta mặc ngay, và vì muốn nhận được lời khen ngợi, sự trầm trồ ngưỡng mộ của những người hàng xóm mà anh ta đứng ra giữa cửa, đợi có ai đi qua thì người ta sẽ khen.
Mở đầu câu chuyện ta đã thấy vô cùng hài hước, người đàn ông trong câu chuyện đã là một người trưởng thành, nhưng lại có một tính cách rất trẻ con, đó là muốn nhận được những lời khen ngợi của mọi người. Nhưng đen đủi thay cho anh ta, vì đứng từ sáng đến tận chiều nhưng không thấy ai hỏi thăm hay đả động gì đến chiếc áo cả. Ta cũng có thể thấy anh ta khá là kiên nhẫn, bởi không nề hà thời gian hay sự mệt mỏi, vì mục đích của mình mà anh ta vô cùng quyết tâm. Sự kiên nhẫn ấy đáng quý nhưng mục đích của anh ta lại rất nực cười, thậm chí thành lố bịch, người đọc sẽ cảm thấy khó hiểu rằng vì sao chỉ vì một lời khen xáo rỗng mà anh ta chấp nhận hi sinh thời gian, và công sức một cách mù quáng như vậy. Tính khoe khoang của anh ta không dừng lại ở sự trẻ con nữa mà thành một hành động đáng chê cười, đả kích. Vì không được ai khen mà anh ta trở nên tức tối, bực bộ.
Tuy nhiên, “trời không phụ lòng người”, công lao đứng từ sáng đến giờ của anh ta cũng có dịp để thể hiện. Vì đúng lúc đang bực bội nhất thì có một người chạy đến, tuy nhiên, vấn đề cần nói ở đây, đó là một người cũng có tính khoe khoang y chang anh chàng này. Tình tiết gây cười của câu chuyện được đẩy lên cao trào khi hai người đàn ông này nói chuyện với nhau. Người đàn ông kia tỏ ra hớt hải chạy đến hỏi anh chàng này : “Bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy qua đây không?”. Lời hỏi han sẽ rất bình thường nếu như anh ta không cố tình nhấn mạnh từ “lợn cưới”. Con lợn thì ai cũng biết, nhưng lợn cưới thì thật kì quặc, nó “đậm” mùi khoe khoang, chẳng là nhà của người đàn ông này đang có công việc, vì vậy mà việc hỏi con lợn cưới chỉ là hình thức màu mè bên ngoài. Còn mục đích chính là khoe hôm nay nhà tôi có việc, có tổ chức ăn uống rất linh đình.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, ta có thể thấy hai anh chàng khoe khoang đều gặp đúng đối thủ, đúng là “vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn”. Người đàn ông chạy đi tìm lợn hỏi với giọng điệu vô cùng hồ hởi, câu trả lời anh t among muốn nhận được nhất lúc này là sự hỏi thăm về con lợn cưới. Nhưng, đối thủ của anh ta lại không phải là người bình thường, anh ta trả lời nhưng cũng không giống với câu trả lời mà người đàn ông tìm lợn muốn nghe: “Từ lúc tôi mặc chiếc áo mới này, chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây cả!”. Nghe qua, câu trả lời đáp ứng được câu hỏi nhưng ai cũng có thể phát hiện ra mục đích của anh chàng kia cũng không phải trả lời mà là khoe về chiếc áo của mình.
Ta thấy, những người hay khoe khoang lại rất thích chơi chữ, họ dùng những hình ảnh để người khác phải xuýt xoa về mình và nhà mình, không nói trực tiếp có lẽ vì ngại và cố tỏ ra lời khoe khoang ấy chỉ là sự vô tình. Tuy nhiên, những hành động, lời nói này thật ngây thơ, chỉ vì một lời khen xáo rỗng mà những người đàn ông này sẵn sàng dựng lên một vở kịch, mà anh ta là đạo diễn, cũng kiêm luôn người viết kịch bản và diễn viên chính. Hành động họ cho là rất nghiêm túc, rất sống động nhưng ai cũng đều nhận ra được mục đích cuối cùng của họ, vì vậy mà tạo ra được những tình huống hài hước.
Câu chuyện cười “Lợn cưới áo mới” đã thông qua việc xây dựng hình ảnh hai anh chàng khoe khoang, khoác lác, các tác giả dân gian đã trực tiếp chế giễu, phê phán những người có tính khoe khoang một cách thái quá, lố bịch. Đây là một tính xấu của con người trong xã hội, cần được sửa chữa và chấn chỉnh. Đây cũng là một bài học cho những người đời sau nhận thức và rút kinh nghiệm.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
An-tôn Sê-khốp là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Nga, những tác phẩm truyện ngắn của ông là những “truyện không có chuyện” và truyện ngắn Một chuyện đùa nho nhỏ cũng vậy, là một câu chuyện kể về một trò đùa của tác giả với câu nói “Na-đi-a, anh yêu em!” như một cách để tác giả bày tỏ tình cảm của mình đến nàng Na-đi-a. Hình ảnh “hàng rào” trong câu chuyện là một mấu chốt quan trọng, là một hình ảnh biểu tượng ngăn cách tâm hồn hai nhân vật. Sau khi bày ra trò đùa nói câu “Na-đi-a, anh yêu em!” mỗi khi đi trượt tuyết, nhân vật “tôi” trước khi phải đi Pê-téc-bua đã đứng nhìn Na-đi-a qua khe hở của hàng rào cao có đinh nhọn, anh chàng đã bày ra trò đùa nho nhỏ ấy như một cách để anh bày tỏ tình cảm của mình đến nàng Na-đi-a, câu nói theo gió bay đến với nàng Na-đi-a thế nhưng chính nhân vật “tôi” cũng bị thiệt thòi bởi trò đùa đó. Hình ảnh “hàng rào” ngăn cách khu vườn nhà nhân vật “tôi” với sân nhà nơi Na-đi-a đang đứng nhìn trời với tâm trạng u sầu như một hình ảnh ẩn dụ về bức tường ngăn cách hai nhân vật. Hai con người, hai tâm hồn dù ở cùng một không gian địa lý nhưng lại không chạm được đến nhau, bị ngăn cách bởi một hàng rào mỏng manh. Cũng qua hàng rào ấy mà nhân vật “tôi” đã nhờ gió gửi đến nàng Na-đi-a câu nói “anh yêu em” như một câu nói chào tạm biệt nàng vậy. Người đọc có thể cảm nhận được khi nhân vật “tôi” đứng nhìn Na-đi-a qua hàng rào đã có một tâm trạng đau buồn, khiến ta thấy thương cảm cho số phận hai nhân vật ấy. Hình ảnh “hàng rào” tuy chỉ là một chi tiết nhỏ bé nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong câu chuyện như một mắt xích để người đọc thấy được sự chuyển biến tâm trạng của hai nhân vật sau trò đùa ấy.
Phương pháp giải:
- Đọc tác phẩm Một chuyện đùa nho nhỏ.
- Đọc kĩ đoạn văn viết về chi tiết hình ảnh “hàng rào” để viết đoạn văn phân tích.
Lời giải chi tiết:
An-tôn Sê-khốp là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học Nga, những tác phẩm truyện ngắn của ông là những “truyện không có chuyện” và truyện ngắn Một chuyện đùa nho nhỏ cũng vậy, là một câu chuyện kể về một trò đùa của tác giả với câu nói “Na-đi-a, anh yêu em!” như một cách để tác giả bày tỏ tình cảm của mình đến nàng Na-đi-a. Hình ảnh “hàng rào” trong câu chuyện là một mấu chốt quan trọng, là một hình ảnh biểu tượng ngăn cách tâm hồn hai nhân vật. Sau khi bày ra trò đùa nói câu “Na-đi-a, anh yêu em!” mỗi khi đi trượt tuyết, nhân vật “tôi” trước khi phải đi Pê-téc-bua đã đứng nhìn Na-đi-a qua khe hở của hàng rào cao có đinh nhọn, anh chàng đã bày ra trò đùa nho nhỏ ấy như một cách để anh bày tỏ tình cảm của mình đến nàng Na-đi-a, câu nói theo gió bay đến với nàng Na-đi-a thế nhưng chính nhân vật “tôi” cũng bị thiệt thòi bởi trò đùa đó. Hình ảnh “hàng rào” ngăn cách khu vườn nhà nhân vật “tôi” với sân nhà nơi Na-đi-a đang đứng nhìn trời với tâm trạng u sầu như một hình ảnh ẩn dụ về bức tường ngăn cách hai nhân vật. Hai con người, hai tâm hồn dù ở cùng một không gian địa lý nhưng lại không chạm được đến nhau, bị ngăn cách bởi một hàng rào mỏng manh. Cũng qua hàng rào ấy mà nhân vật “tôi” đã nhờ gió gửi đến nàng Na-đi-a câu nói “anh yêu em” như một câu nói chào tạm biệt nàng vậy. Người đọc có thể cảm nhận được khi nhân vật “tôi” đứng nhìn Na-đi-a qua hàng rào đã có một tâm trạng đau buồn, khiến ta thấy thương cảm cho số phận hai nhân vật ấy. Hình ảnh “hàng rào” tuy chỉ là một chi tiết nhỏ bé nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong câu chuyện như một mắt xích để người đọc thấy được sự chuyển biến tâm trạng của hai nhân vật sau trò đùa ấy.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Bài viết tham khảo:
Hàng rào xuất hiện trong cảnh chia tay ở đoạn cuối truyện ngắn “Một truyện đùa nho nhỏ” là biểu tượng của sự rào cản, ngăn cách. Từ rào cản vật chất của hoàn cảnh trở thành rào cản trong tinh thần. Hình ảnh “hàng rào có đinh nhọn” chính là sự cản trở, ngăn cách mối quan hệ giữa hai nhân vật. Nhưng hành động “ghế nhìn qua khe hở” của nhân vật tôi và gửi lời theo gió đã cho thấy khát khao giao cảm của hai nhân vật. Nhưng dẫu sao, tình cảm của họ vẫn chưa đủ trọn vẹn, chưa đủ dũng khí để bộc lộ thành lời nói trực tiếp, chưa thế phá bỏ những rào cản ngăn cách. Một người không tự tin vào tình cảm của mình, thiếu sự đồng cảm và một người băn khoăn, trăn trở với tình cảm của đối phương. Chính vì vậy, họ đã đánh mất tình yêu của mình. Hàng rào chỉ là một biểu tượng cho thấy giữa họ đang thiếu sợi dây gắn kết đó là sự thấu hiểu, đồng cảm, yêu thương.