viết đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về khổ 3 trong bài gặp lá cơm nếp
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Bài thơ "Gặp lá cơm nếp" được viết lên từ nỗi nhớ, tình yêu mà nhà thơ dành cho mẹ. Tác giả đã xa nhà nhiều năm, thèm một bát xôi nếp mùa gặt và nhớ về mẹ cùng những hương vị yêu dấu của làng quê. Trong tâm hồn các anh, người mẹ là hình ảnh lớn lao nhất, đẹp đẽ nhất của quê hương. Với người lính, mẹ là suối nguồn của yêu thương, là ánh sáng diệu kì dõi theo con suốt cuộc đời.
Bài thơ "Gặp lá cơm nếp" được viết lên từ nỗi nhớ, tình yêu mà nhà thơ dành cho mẹ. Tác giả đã xa nhà nhiều năm, thèm một bát xôi nếp mùa gặt và nhớ về mẹ cùng những hương vị yêu dấu của làng quê. Trong tâm hồn các anh, người mẹ là hình ảnh lớn lao nhất, đẹp đẽ nhất của quê hương. Với người lính, mẹ là suối nguồn của yêu thương, là ánh sáng diệu kì dõi theo con suốt cuộc đời.

Nhân vật người con trong bài thơ “Gặp lá cơm nếp” khiến tôi cảm thấy vô cùng yêu mến. Nhà thơ không khắc họa nhân vật này qua ngoại hình mà chủ yếu qua lời nói, hành động. Người con hiện lên với tình cảm yêu thương, trân trọng dành cho người mẹ. Khi đọc những câu thơ đó, tôi có thể tưởng tượng nhân vật người con có thể là một người chiến sĩ, sau nhiều năm xa nhà có dịp về thăm. Khi nhìn thấy lá hình ảnh lá cơm nếp, người chiến sĩ đã nhớ về bát xôi mùa gặt của mẹ, nhớ về người mẹ. Dù chỉ là một sự vật giản dị, nhưng người con đã nhớ về mẹ, điều đó cho thấy một tâm hồn nhạy cảm của nhân vật này. Không chỉ vậy, người chiến sĩ còn tình yêu dành cho đất nước khi trong lòng anh luôn dạt dào tình cảm với làng quê, dân tộc: “Ôi cái mùi vị quê hương/Con làm sao quên được”. Qua bài thơ, tôi thấu hiểu hơn tâm trạng của những người lính khi phải rời xa quê hương, mẹ hiền. Và tôi cũng thêm yêu quý, trân trọng người mẹ của mình nhiều hơn.

Dưới đây là đoạn văn mẫu bạn có thể tham khảo về cảm xúc sau khi đọc bài “Gặp lá cơm nếp”:
Sau khi đọc bài “Gặp lá cơm nếp”, mình cảm thấy rất xúc động và ấm lòng trước tình cảm sâu sắc, giản dị của người bà dành cho cháu. Câu chuyện không chỉ đơn thuần kể về một món ăn bình dị mà còn thể hiện tình cảm gia đình thiêng liêng, sự quan tâm, chăm sóc tận tình và tình thương yêu vô bờ bến. Hình ảnh bà cẩn thận gói lá cơm nếp, dành cho cháu món quà nhỏ bé nhưng chan chứa tình cảm khiến mình nhớ đến những kỷ niệm thân thương bên gia đình. Qua đó, mình hiểu hơn về giá trị của tình thân, sự sẻ chia và những điều giản dị trong cuộc sống thường ngày mà ta dễ dàng bỏ qua. Món ăn không chỉ là thức ăn mà còn là biểu tượng của sự gắn kết, của những kỷ niệm ấm áp không thể phai nhòa. Đọc xong, mình cảm thấy trân trọng hơn những người thân yêu bên cạnh, muốn dành nhiều thời gian, tình cảm hơn để chăm sóc và yêu thương họ. Bài viết cũng khiến mình suy ngẫm về cách thể hiện tình cảm, không cần những lời nói hoa mỹ mà chỉ cần sự chân thành và hành động giản dị. Qua đó, mình cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống giản đơn mà ý nghĩa.
Bạn có muốn mình giúp chỉnh sửa hoặc làm đoạn văn theo một phong cách khác không?
Sau khi đọc bài "Gặp lá cơm nếp," tôi cảm thấy một nỗi xúc động sâu sắc, như thể có một dòng cảm xúc ngọt ngào và ấm áp lặng lẽ len vào lòng. Bài thơ đưa tôi trở về những ký ức xưa cũ của một thời tuổi thơ, nơi có hương vị thân thuộc của làng quê và tình yêu thương giản dị mà chân thành. Những hình ảnh của lá cơm nếp trong bài thơ khiến tôi nhớ về những ngày tháng cùng bà mẹ, cùng bạn bè, quây quần bên mâm cơm ấm áp, có cả vị ngọt bùi của lá nếp và sự vất vả của những công việc lao động chân tay.
Mỗi lời thơ, mỗi câu văn trong bài như một nốt nhạc du dương, nhẹ nhàng nhưng lại đầy ý nghĩa. Nó không chỉ làm sống dậy hình ảnh quê hương, mà còn khơi gợi trong tôi những suy nghĩ về giá trị của tình thân, của sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Bài thơ như một lời nhắc nhở về những điều giản dị, nhưng vô cùng quý giá mà chúng ta đôi khi quên đi trong cuộc sống hiện đại. Đọc xong, tôi cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm, bình yên và tràn đầy biết ơn vì những gì mình đang có.

Bài làm
Cha mẹ là người có công sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta nên người, vì thế dù có đi bất cứ nơi đâu thì chúng ta cũng luôn hướng về cha mẹ. Thanh Thảo đã khéo nói hộ chúng ta nỗi nhớ ấy thông qua bài thơ Gặp lá cơm nếp. Khi xa nhà, bỗng dưng gặp lá nếp mà nỗi nhớ mẹ, nhớ quê hương cứ thế ùa về. Nhớ về mẹ là nhớ món xôi của mẹ “bát xôi mùa gặt/ mùi xôi sao lạ lùng”. Mùi xôi của mẹ hay chính là vị quê hương quen thuộc luôn thường trực trong con “thơm suốt đường con”. Tình yêu mẹ, yêu quê hương đất nước không chỉ được thể hiện qua món xôi, qua mùi vị quê hương, tình yêu thương đó đã dâng trào bộc trực ra lời nói “ôi mùi vị quê hương/ con làm sao quên được/ mẹ già và đất nước/ chia đều nỗi nhớ thương”. Mẹ được đặt ngang với đất nước, được người con chia đều nỗi nhớ thương, qua đó chúng ta thấy được tình cảm sâu nặng của người con dành cho người mẹ già yêu quý của mình.
*Xin lỗi, có thể mình không để ý có bao nhiêu câu. Mong bạn tick cho mình ạh
Trong văn bản “Gặp lá cơm nếp”, hình ảnh người mẹ hiện lên vô cùng giản dị mà đầy xúc động. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, vất vả, mẹ vẫn luôn nghĩ đến con, luôn cố gắng mang đến cho con những gì tốt đẹp nhất, dù chỉ là gói xôi hay chiếc bánh. Tình mẹ trong truyện được thể hiện qua hành động lặng lẽ, tấm lòng hy sinh âm thầm mà sâu sắc. Qua đó, em cảm nhận được tình mẫu tử thiêng liêng, chân thành và cảm động. Người mẹ trong văn bản khiến em liên tưởng đến mẹ của mình – cũng yêu thương, lo lắng cho em từng điều nhỏ nhặt. Văn bản giúp em thêm yêu quý, trân trọng mẹ và hiểu rằng: không có tình cảm nào cao cả hơn tình mẹ dành cho con.


TK#
Đây là phần thứ hai bài thơ "Ông đồ" của Vũ Đình Liên, một bài thơ ngũ ngôn kiệt tác trong phong trào Thơ mới trước năm 1945. Hình tượng thơ, giọng thơ buồn tê tái, cứ thấm vào hồn người.
Nhiều năm tháng đã trôi qua. Đâu còn những mùa xuân rực rỡ nữa? Đâu còn cảnh những ngày tưng bừng, rộn ràng bên đường phố, khi ông đồ "Hoa tay thảo những nét - Như phượng múa rồng bay”. Đâu còn nữa một thời vang bóng: "Bao nhiêu người thuê viết - Tấm tắc ngợi khen tài”. Tương phản với một quá khứ huy hoàng là một hiện tại cô đơn, trơ trọi. Câu hỏi tu từ cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán. Chua xót vì sự đổi thay của thế sự, vì sự lạnh nhạt của người đời. Dòng chảy thời gian trôi buồn dài lê thê, càng trở nên trống vắng:
"Nhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?"
Vũ Đình Liên đã lấy sự vật để đặc tả hồn người, tình người tê tái:
"Giấy đỏ buồn không thắm;Mực đọng trong nghiên sầu"...
"Giấy đỏ" vì nỗi đau của người mà đã nhạt phai, nhạt nhòa "buồn không thắm" nữa. Nghiên mực xưa ngát thơm mực Tàu đen nhánh nay trở thành “nghiên sầu" đáng thương; mực đã bị khô, bị chết, bị đọng lại một cách buồn đau. Giấy đỏ, nghiên mực được nhân hóa để cực tả nỗi buồn cô đơn của một lớp người tài hoa sinh bất phùng thời trong cõi bể dâu, cái thời "Thời có ra gì cái chữ Nho" - khi Hán tự đã mạt vận!
Những mùa hoa đào nối tiếp đi qua... Giữa một không gian rét mướt, chỉ còn thấy hình bóng một ông đồ già trơ trọi đáng thương:
"Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hay".
Ba chữ "vẫn ngồi đây" gợi tả một hình nhân bất động, vô cảm và vô hồn. Bị lãng quên trong lòng người và trong dòng đời, còn ai đoái hoài ồng đồ nữa: "Qua đường không ai hay"! Dư vị của vần thơ là cả một nỗi buồn cay đắng, chua xót!
Bài thơ "Chợ Đồng" của Tam nguyên Yên Đổ đã ghi lại bao cảnh buồn thê lương của phiên chợ Tết nơi làng quê trong những năm đầu của thế kỉ trước. Người đi chợ về lầm lũi, tầm tã trong một không gian "Dở trời mưa bụi còn hơi rét", chỉ nghe một nỗi buồn cơ cực "xáo xác" mà thôi:
"Hàng quán người về nghe xáo xác,Nợ nần năm hết hỏi lung tung".
Ta lại bắt gặp làn mưa bụi trong bài thơ "ông đồ". Một thân phận hiện hữu đáng buồn và đáng thương, xót xa và sầu tủi:
"Lá vàng rơi trên giấy;Ngoài trời mưa bụi bay...
Giấy đỏ bị phủ đầy lá vàng sao mà chẳng "buồn không thắm"? Màu vàng tàn tạ của lá rụng, làn mưa bụi tiết đại hàn cuối đông, như phủ mờ đất trời, làm xót xa, tê tái lòng người. "Lá vàng", "mưa bụi bay" là hai hình ảnh tượng trưng cho một sự lụi tàn để lại nhiều thương cảm. Hình bóng ông đồ già bất động như một pho tượng cổ cứ mờ dần, nhạt nhòa dần trên nền "vàng" của lá rụng, trong màu trắng đục, trắng mờ của làn "mưa bụi bay" buổi đông tàn.
Thơ hay bao giờ cũng để lại, đọng lại một cái gì đó trong lòng người. Nỗi cảm thương xót xa là cái tình, là chất nhân văn của đoạn thơ này đã đọng lại trong hồn ta. Hình tượng thơ mang ý nghĩa tượng trưng mà sâu sắc, gợi cảm. Thương ông đồ già, thương một lớp người tài hoa, ta lại tiếc thương nền văn hóa Nho học truyền thống của quê hương đã lụi tàn. Cái nghiên sầu của ông đồ già cứ ám ảnh hoài, ám ảnh mãi.
Ông đồ già "Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ?
Với giọng kể và lời thơ miêu tả hiện lên ảnh hình ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng cảnh vật quanh ông đã khác xưa. Ông đồ bỗng trở nên đơn côi, lạc lõng đến tội nghiệp giữa cái xô bồ, ồn ào của nền văn minh lạnh lùng kiểu đô thị dù ông vẫn muốn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đấy, ông vẫn kiên gan bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi, lạc bước. Giấy đỏ, nghiên mực, hành trang gắn liền với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ, ủ ê trong nỗi buồn ế khách của ông đồ.Giấy bẽ bàng, buồn tủi, đỏ mà cứ phai dần, nhạt nhẽo không thắm lên được, mực không được bút lòng chấm vào, mực cũng đọng lại như giọt lệ khóc. Với thủ pháp nhân hóa giàu sức gợi, Vũ Đình Liên đã diễn tả thật tinh tế nỗi buồn không nói không cất lên được, từ lòng người đã thấm cả vào những vật vô tri khiến mực tàu, giấy đỏ cùng trĩu nặng nỗi buồn.Người buồn, cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên nghiên mực, giấy đỏ mà còn lan tỏa, mênh mang khắp không gian, khiến bức tranh xuân năm ấy mang gam màu xám lạnh, u buồn. Lá vàng rơi không nghe tiếng, mưa bụi bay không ướt áo ai, mà nghe như có từng thu chết, từng thu chết cuốn ra đi theo hình bóng một lớp người. Quá khứ vàng son của ông đồ nay đâu còn nữa. Ông và những người như ông dường như đang lỡ nhịp, lạc bước giữa mênh mông, gió cuốn, sóng xô của cơn bão táp đô thị hóa. Ông chỉ là cái bóng vô hồn, tiều tụy đáng thương của một thời tàn.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu không có mấy câu thơ này, có lẽ ta không biết nhà thơ đang xa quê. ta thấy được một khung cảnh vô cùng sống động trước mắt chúng ta, vậy mà nó lại được viết ra từ tâm tưởng một cậu học trò. từ đó ta có thể nhận ra rằng quê hương luôn nằm trong tiềm thức nhà thơ, quê hương luôn hiện hình trong từng suy nghĩ, từng dòng cảm xúc. Nối nhớ quê hương thiết tha bật ra thành những lời nói vô cùng giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn nồng, quê hương là con nước xanh, là màu cá bạc, là cánh buồm vôi. Màu của quê hương là những màu tươi sáng nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh yêu nhất những hương vị đặc trưng quê hương đầy sức quyến rũ và ngọt ngào. Chất thơ của Tế Hanh bình dị như con người ông, bình dị như những người dân quê ông, khoẻ khoắn và sâu lắng. Từ đó toát lên bức tranh thiên nhiên tươi sáng, thơ mộng và hùng tráng từ đời sống lao động hàng ngày của người dân.
Hai câu thơ tiếp theo như những dòng nhật kí tâm tình của Tế Hanh, nói về công việc thường nhật xảy ra ở ngôi làng ven biển này. Tiết trời ở đây thật trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm, tiến ra biển cả.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: “hăng, phăng, vượt” và sử dụng nghệ thuật so sánh “chiếc thuyền nhẹ” với “con tuấn mã”, làm gợi lên vẻ đẹp, sự dũng mãnh của con thuyền.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Ở hai câu tiếp theo này, nghệ thuật so sánh lại được sử dụng. “Cánh buồm” được so sánh với “mảnh hồn làng”, thể hiện tình yêu quê hương luôn tiềm tàng trong con người Tế Hanh.
Được sử dụng một lần nữa, động từ, tính từ mạnh: “giương, rướn, bao la” đã cho ta thấy một vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào của cánh buồm vi vu trong gió biển
Ngay tiếng đầu tiên, tác giả đã dùng từ ''Ôi'' để miêu tả cảm xúc xúc động trong mình.Tác giả thể hiện sự nhớ thương đối với mẹ già, với những bát xôi mùa gặt mà mình từng nếm qua . Cũng như hiện tình yêu thương quê hương và mẹ của mình. Tình yêu quê hương của tác giả cũng tựa như lòng kính yêu đối với mẹ già được thể hiện qua 2 câu thơ:
''Mẹ già và đất nước
Chia đều nỗi nhớ thương.''
Nhớ mẹ cũng là vì xa nhà đã mấy năm. Còn đất nước thì là vì tấm lòng của những người công dân,người chiến sĩ yêu nước.