thuyết minh về đình chùa ngô xá
giúp mk với ạ thanks
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
MB
Lễ hội chùa Hương đã có tự lâu đời. Hằng năm, cứ sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài gần như suốt mùa xuân. Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, Việt kiều và du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để được đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
TB
Tạm biệt chùa Hương, trong tay mỗi du khách đều có vài thứ mang về làm kỉ niệm. Chiếc khánh xà cừ buộc bằng chỉ đỏ đeo vào cổ lấy may, cây gậy trúc đã theo chân suốt cuộc hành trinh, chuỗi hạt bồ đề, gói trà lão mai hay bó rau sắn xanh mướt mà nhà thơ Tản Đà đã nhắc đến trong thơ ông từ những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ trước: Muốn ăn rau sắn Chùa Hương. Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa... Du khách lên xe ra về mà lòng bâng khuâng, lưu luyến, mong cho chóng đến mùa lễ hội năm sau. Chẳng ai bảo ai, mọi người cùng ngoái lại nhìn để in đậm thêm trong tâm tưởng bức tranh tuyệt mĩ của phong cảnh Hương Sơn, để càng thêm yêu mến, tự hào về giang sơn gấm vóc.
Bai tham khảo
Hai làng Tình Quang và Quán Tình tuy quy mô và thời điểm hình thành khác nhau nhưng mỗi làng đều có một ngôi chùa và một ngôi đình làm nơi hội họp, tế lễ, bàn bạc các công việc chung. Trước đây mỗi làng đều có khu Văn chỉ, nơi thờ đức Khổng Tử và dựng các văn bia ghi tên những người có học hành, đỗ đạt của làng. Làng Tình Quang trước đây có một số gia đình tự lập điện thờ Đức thánh Trần như nhà cụ Tranh, cụ Khiếu, cụ Điển Bẩy...
ĐÌNH QUÁN TÌNH
(PHƯỜNG GIANG BIÊN, QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.
Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.
Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:
Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).
Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.
Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.
Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.
Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.
Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.
Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.
Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.
Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).
Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.
Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.
Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.
Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).
Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.
Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.
Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.
Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.
Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã .
Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện...
Chùa Quán Tình có tên chữ là “Thái Linh Quán tự” hay “Thái Linh tự” . Chùa nằm phía bên trái của đình, ngay gần sát chân đê sông Đuống. Ngôi chùa vừa được tu sửa cùng với đình vào năm 2004. Chùa chính có kết cấu hình chữ đinh, toà Tiền đường có 5 gian 2 mái, xây theo kiểu tường hồi bít đốc. Phần Thượng điện được đựng theo dạng lầu bát giác, với 2 tầng 8 mái.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa rõ chùa Quán Tình được xây dựng từ bao giờ, vì chưa có tư liệu nào nói đến việc khởi dựng. Chùa còn giữ được rất nhiều bia đá cổ, tấm bia hậu có niên đại sớm nhất lập năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), trong đó có khắc bài thơ rất hay miêu tả cảnh đẹp của chùa và ghi danh những người công đức tiền, ruộng để tu sửa chùa. Đây là một tấm bia đá rất quý để nghiên cứu sự tồn tại của di tích chùa Quán Tình. Như vậy vào giữa thế kỷ XVII, chùa Quán Tình đã được tu sửa, mở rộng khuôn viên.
Văn bia lập năm Ất Mùi (1775) có ghi: “Nguyên xưa kia có bia chùa Thái Linh, triều trước lập dựng ngay gần sông, do nước xoáy lở mà bị thất lạc, nay cho sửa nền đất mà ghi lại các vật trong Tam bảo”. Như vậy, trong khoảng thời gian từ năm 1655 đến năm 1775, chùa Quán Tình có sự chuyển dịch đến vị trí hiện nay.
Hiện chùa còn lưu giữ một quả chuông đồng có niên đại Cảnh Thịnh thứ 8 (1800). Nội dung Bài minh trên chuông cho thấy toàn xã quan viên lớn nhỏ. cùng góp công của để đúc một quả chuông. Minh chuông còn khắc bài thơ ca ngợi cảnh đẹp của chốn thiền môn..
Ngoài các hiện vật nêu trên, chùa còn lưu giữ được 3 tấm bia hậu, 1 Thạch đài trụ (vẫn quen gọi là Cây hương đá) và hệ thống tượng Phật mang phong cách nghệ thuật Nguyễn (cuối thế kỷ XIX).
Qua hệ thống bia đá hiện còn tại chùa, nguồn tư liệu quý giá phần nào giúp chúng ta tìm hiểu về lịch sử làng xã những biến động không ngừng của dòng chảy Thiên Đức đã tạo cho một Quán Tình những bước thăng trầm. Mặt khác, chùa còn lưu giữ được quả chuông đã góp phần giúp chúng ta tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình và đúc đồng dưới thời Tây Sơn, đồng thời cũng góp phần vào việc nghiên cứu mỹ thuật cổ truyền đương thời.
Chùa Quán Tình, ngày nay đã được tu sửa để phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong vùng.
cBài tham khảo
Giang Biên, tức Vịa Đàm xưa, hiện là một phường thuộc quận Long Biên, thành phố Hà Nội, gồm hai làng Tình Quang và Quán Tình. Vào cuối thời Nguyễn, Tình Quang và Quán Tình là hai đơn vị hành chính độc lập, thuộc tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Quán Tình có tên Nôm là Kẻ Tạnh. Người dân trong làng vẫn còn truyền nhau câu chuyện về sự tích “Quán Tạnh” như sau: Vào một năm nọ, trời nổi mưa to, gió lớn hàng tháng liền, gây ngập lụt lớn, kinh đô Thăng Long ngập hàng thước nước, các vùng xung quang cũng bị ngập lụt. Dân chúng rất khổ sở vì nạn mưa và lụt lội. Lúc ấy, công chúa Ngọc Hân trên đường qua vùng này, khi đi đến đây, vào quán đầu làng trú mưa thì mưa tạnh và cái tên Kẻ Tạnh được công chúa Ngọc Hân đặt cho làng để thể hiện tình cảm của mình với người dân nơi đây.
Nguyên ủy, làng Quán Tình nằm phía trong đê, làng có xóm trên, xóm dưới, đến năm 1956, các xóm trên và xóm dưới được đổi tên thành xóm Đồng Tâm và Đồng Thanh. Ngoài ra, làng còn có một xóm nhỏ ngoài đê là xóm Hòa Bình. Trong làng có ba dòng họ chính, là: Vũ, Nguyễn, Trần. Quán Tình từng nổi tiếng với nghề trồng đay vặn võng.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Giang Biên cùng cả nước đã giành được những chiến công oanh liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước, viết nên những trang sử truyền thống vẻ vang của địa phương và góp phần tô thắm thêm truyền thống vinh quang của Thủ đô. Bên cạnh đó, Giang Biên còn có truyền thống văn hóa từ rất lâu đời. Trên địa bàn xã, các di tích lịch sử - văn hóa (đình, đền, chùa, miếu, từ chỉ) được phân bố ở hầu hết các thôn, đa số được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII.
Đình Quán Tình thờ tướng quân Nguyễn Nộn, một nhân vật lịch sử cuối thời Lý - đầu thời Trần. Qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết, sự tích của thần được ghi nhận như sau:
Nguyễn Nộn là người xã Phủ Dực (huyện Tiên Du) nay là xã Phù Đổng, Gia Lâm. Theo Đại Việt sử lược, ông là người có gương mặt đẹp, lại có lòng bao dung, có tính bình thản thanh thoát. Phả hệ họ Nguyễn chép, ông là cháu 5 đời của Định Quốc công Nguyễn Bặc (thời nhà Đinh).
Hiện sử sách ghi chép về ông cũng khá sơ sài. Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều cho biết: Nguyễn Nộn vốn là một cư sĩ ở hương Phù Đồng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, nên bị triều đình xuống chiếu bắt giam.
Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông là người có tài, bèn tâu với vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông chuẩn tấu. Tháng 10 năm đó, Tự Khánh sai Nguyễn Nộn đem quân đi đánh người Man ở Quảng Oai. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, trấn giữ hương Phù Đổng, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Vua Huệ Tông sai người đem sắc thư đến tuyên dụ. Song, vì vua có bệnh, không thể chế ngự được, trong khi họ Trần cũng đang mưu tính đoạt ngôi nhà lý nên chưa tính tới Nguyễn Nộn.
Đại Việt sử lược, cuốn sử ra đời vào thời Trần lại cho biết: Nguyễn Nộn vốn là bộ tướng của tướng Trần Tự Khánh, theo Tự Khánh tham gia vào những cuộc chinh chiến với các sứ quân và chống lại nhà Lý từ đầu thời Lý Huệ Tông chứ không phải tới năm 1218 ông mới xuất hiện trên chính trường. Cũng theo sách này, năm 1213, Trần Tự Khánh sai người sang Bắc Giang mời ông (Nguyễn Nộn) về. Nguyễn Nộn về đến nơi, Trần Tự Khánh dùng dây thép trói lại năm vòng, giam cầm ông. Tuy nhiên, chưa rõ vì lý do gì mà Nguyễn Nộn bị Tự Khánh bắt giam.
Tháng 9, Trần Tự Khánh mở trói dây thép cho Nguyễn Nộn. Tuy ở trong cảnh ngục tù mà thần sắc Nguyễn Nộn vẫn giữ được vẻ tự nhiên. Khi thấy bọn dũng sĩ nhảy, ông liền mang theo cả cái dây xích sắt mà nhảy và nhảy mạnh hơn bọn dũng sĩ. Trần Tự Khánh trông thấy, lấy làm lạ, bèn thả ông, cho làm tướng và đem người con gái của bà dì gả cho ông. Sau đó, Tự Khánh lại trao cho ông hai ấp là Trần Khê và Cả Lũ.
Năm 1213, Nguyễn Nộn cầm một cánh quân họ Trần chống lại quân triều đình do đích thân Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông chỉ huy. Ông cùng các tướng họ Trần đánh bại quân nhà Lý. Em họ Trần Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn tiến đánh thắng quân triều đình. Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến chợ Dừa, cùng Phan Lân đánh thắng các tướng ở Hồng Châu là Đoàn Cấm, Vũ hốt. Lý Huệ Tông thất thế phải chạy lên Lạng Châu.
Sau trận này, ông được Trần Tự Khánh giao trấn giữ vùng Bắc Giang. Trần Tự Khánh lên Lạng Châu rước Huệ Tông không được, liền lập hoàng thân khác lên ngôi, tức là vua Càn Ninh.
Năm 1214, an hem họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc NInh), Nguyễn Nộn giết chết Đoàn Nguyễn, nhưng cũng bị thương ở lưng.
Tuy nhiên, lúc này nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xã Sơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Nhân thời cơ đó, Nguyễn Nộn cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải các kho và phóng hỏa đốt kinh đô, rồi đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).
Nguyễn Nộn đem binh đến Thăng Long đánh nhau với Tự Khánh. Huệ Tông và Thái hậu khi đang trên đường từ Nam Sách trở về Thăng Long, phong cho Nguyễn Nộn tước hầu để mượn tay Nộn chống lại họ Trần. Từ đó, cục diện trong nước lúc này hình thành ba thế lực: Phía Bắc là Nguyễn Nộn, phía Đông là Đoàn Thượng, phía Nam là Trần Tự Khánh.
Tháng 1 năm 1215, hai tướng của Trần Tự Khánh là Nguyễn Đường và Nguyễn Giai thông đồng với Nguyễn Nộn đánh Trần Tự Khánh, nhưng Đường và Giai lại hàng Trần Tự Khánh. Tháng 2, Nguyễn Nộn được phong tước vương. Tháng 3, Nguyễn Nộn đánh thắng Nguyễn Đường và Nguyễn Giai.
Sau đó, một loạt lực lượng cát cứ khác nổi dậy chiếm cứ các nơi. Sau nhiều lần bôn tẩu, cuối cùng, đến năm 1216, Lý Huệ Tông buộc phải dựa vào anh vợ là Trần Tự Khánh là lực lượng mạnh hơn cả. Tự Khánh lại phụng thờ Huệ Tông, mượn tiếng Huệ Tông để chinh phục được nhiều sứ quân khác. Huệ Tông hạ chiếu cho Nguyễn Nộn làm lính thường.
Kết cục của Nguyễn Nộn cũng được sử sách ghi chép không thống nhất. Các nguồn sử liệu khác nhau ghi chênh lệch về thời gian khá nhiều. Chỉ có một điểm chung duy nhất, là các nguồn sử sách đều xác nhận ông chết vì bệnh.
Theo Đại Việt sử lược, tháng 6 năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Khi quân của Trần Tự Khánh đang đóng ở bến Triều Đông thì Nguyễn Nộn đã chết rồi. Ngày Canh Ngọ, tướng của Nộn là Phi Thám ra đầu hàng Trần Tự Khánh, có mang theo thái hậu và các công chúa (con vua Huệ Tông).
Như vậy, trong khi vua Huệ Tông trong tay Trần Tự Khánh thì có một bộ phận tôn thất nhà Lý lại trong tay Nguyễn Nộn.
Theo các sách sử khác, sau năm 1219, Nguyễn Nộn vẫn còn hoạt động. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần).
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em ruột là Trần Thừa và em họ là Trần Thủ Độ lên thay nắm quyền điều hành việc triều đình. Thế quân của Nguyễn Nộn ngày càng mạnh. Nguyễn Nộn chiếm cứ Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm cứ Hồng Châu.
Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên, bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn.
Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại và giết chết Đoàn Thượng. Nhân đó, ông gộp cả quân của Thượng là Văn đem gia thuộc đến hàng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lẫy lừng. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Sau đó, Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Biết ý Thủ Độ muốn dùng công chúa để lung lạc mình và dò la tin tức, ông cho nha tướng canh giữ chỗ ông ở. Vì thế, công chúa không thể báo được tin gì cho triều đình.
Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Tuy nhiên, ông cũng tự lượng sức, biết thế mình không thể cùng đối lập với nhà Trần, định đến tháng 10 sẽ vào chầu, song còn do dự chưa quyết. Cuối năm đó, ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm. Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khỏe mạnh, nhưng không bao lâu thì ông qua đời. Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã .
Như vậy, Đại Việt sử lược phản ánh hoạt động của Nguyễn Nộn từ năm 1213 tới 1219, còn “Toàn thư” và “Cương mục” nêu hành trạng của ông từ 1218 đến 1229.
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, Nguyễn Nộn tham gia chính trường từ 1213 và theo Trần Tự Khánh như Đại Việt sử lược phản ánh. Tuy nhiên, các chuyên gia nghi ngờ về cái chết của ông (năm 1219). Theo nhóm ý kiến này, sau một trận thua quân Trần Tự Khánh, “vợ con Nguyễn Nộn đều bị bắt, Nguyễn Nộn mang theo 100 người về giữ Phù Ninh” và sau đó vẫn còn sống chứ không “ốm chết” như Đại Việt sử lược nêu. Ông tiếp tục tái lập lực lượng và giữ được Bắc Giang. Những sự kiện rong quãng đời sau đó của ông, như được gả công chúa Ngoạn Thiềm, giết được sứ quân Đoàn Thượng và xưng Hoài Vũ Đạo Vương như “Toàn thư” và “Cương mục” ghi. Ông ốm mất năm 1229.
Theo một số gia phả họ Nguyễn, Nguyễn Nộn là cháu 5 đời của Nguyễn Bặc và là tổ của họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn - Thanh Hóa), là tổ tiên của chúa Nguyễn. Tuy nhiên, chính sử nhà Nguyễn không xác nhận điều này. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của chính nhà Nguyễn - hậu thế của các chúa Nguyễn - xác nhận, Nguyễn Nộn là “người làng Phù...
Nhắc đến người con gái Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay tới hình ảnh người con gái với áo dài và nón lá. Chiếc nón lá vừa là hình ảnh quen thuộc, gần gũi với người phụ nữ vừa là một biểu tượng văn hóa của một nét đẹp nghìn năm văn hiến.
Thật vậy, ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam chúng ta đều rất dễ bắt gặp hình ảnh những chiếc nón lá mộc mạc, đơn sơ nhưng nó lại ẩn chứa một vẻ đẹp thuần hậu. Không chỉ đơn thuần là vật dụng che mưa che nắng của người phụ nữ chân quê, mà nó còn là món quà tinh thần ý nghĩa của Việt Nam. Bạn bè quốc tế đến thăm hay khách du lịch đến Việt Nam thì đều được tặng những chiếc nón lá như là một kỉ niệm đẹp và để tỏ lòng mến khách của người Việt.
Nón lá xuất hiện từ khoảng 2500-3000 TCN và được lưu truyền cho đến tận ngày nay. Đối với người phụ nữ Việt thì nón lá là một vật dụng quan trọng trong cuộc sống của họ. Trước hết, nón là dùng để che mưa che nắng. Các bà, các mẹ, các chị từ xa xưa đã đội nón lá đi làm đồng, đi chợ và cả đi chơi hội nữa. Ngày tiễn con gái về nhà chồng, bà mẹ cũng thường trao cho con chiếc nón lá với bao lời nhắn gửi yêu thương.
Từ trong đời sống thường ngày, chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa, gợi nguồn cảm hứng cho nhạc, cho thơ. Đã có không ít những bài hát về chiếc nón lá: “Một chiều làng quê trên đường đê lối nhỏ đi về, nụ cười đưa duyên em thẹn thùng trong nón lá che nghiêng” hay “Một người con gái, đứng nghiêng nghiêng vành nón lá. Đường chiều bờ đê, lối xưa kỉ niệm thiết tha”…. Chiếc nón lá còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần trong thơ: “Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che”. Thế rồi, trong những năm tháng chiến tranh loạn lạc, lúc tiễn người yêu ra chiến trường, cô gái thường đội nón lá với quai tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi cũng đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển. Chỉ như vậy thôi cũng đã đủ làm yên lòng người ra trận.
Có thể thấy rằng, xuyên suốt từ bao đời nay, từ trong thực tế cho đến những làn điệu dân ca, những lời thơ, câu văn đều có bóng dáng hình ảnh chiếc nón lá gắn liền với người con gái Việt Nam dịu dàng, duyên dáng. Ngày nay, để tạo ra chiếc nón lá thì người thợ làm nón cần phải có đôi tay khéo léo, có cả tâm tình mới có thể tạo nên được những chiếc nón xinh xăn và thiết kế tỉ mỉ đến như vậy. Nón lá thường được đan bằng các loại lá cây khác nhau như lá cọ, rơm, tre, lá dừa, lá hồ, lá du quy diệp chuyên làm nón v.v. Mỗi một chiếc nón thường sẽ có quai đeo làm bằng vải mềm hoặc lụa. Những người thổi được hồn vào những chiếc nón, làm nên những chiếc nón đẹp tinh tế là những người thực sự có đôi bàn tay khéo léo và có tâm tình chan chứa.
Là một biểu tượng của người phụ nữ Việt, chiếc nón lá gắn liền với cả đời sống vật chất và tinh thần của chúng ta. Đi khắp miền đất nước, hình ảnh chiếc nón lá vẫn luôn là hình ảnh chúng ta dễ bắt gặp hơn cả. Đó vừa là nét đẹp bình dị, mộc mạc, duyên dáng của người phụ nữ Việt, vừa là một biểu tượng văn hóa của một đất nước trọng tình trọng nghĩa của nước Nam ta. Biểu tượng ấy đã góp phần làm nên một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Mở bài
Giới thiệu lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.
Thân bài:
Giới thiệu những đặc điểm của lễ hội theo kết cấu thời gian kết hợp với kết cấu logic.
– Trình bày thời gian tổ chức lễ hội, địa điểm, nguồn gốc lễ hội:
+ Thời gian cụ thể (thời gian ấy gắn với ý nghĩa lịch sử như thế nào).
+ Địa điểm tổ chức lễ hội.
+ Nguồn gốc,lí do tổ chức lễ hội (tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống hay thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại).
– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:
+ Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.
+ Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).
+ Chuẩn bị về địa điểm…
– Giới thiệu diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thường lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội.
+ Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.
+ Nếu là lễ hội thể hiện khí thế của thời đại: tuyên bố lí do; các đại biểu nêu ý nghĩa, cảm tượng vè lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)
– Đánh giá về ý nghĩa lễ hội.
Kết bài:
Khẳng định lại ý nghĩa lễ hội.
Việt Nam ta tự hào khi sở hữu nhiều kỳ quan của tạo hóa, những di tích ghi dấu ấn tâm linh, cửa nhà Phật. Một trong những danh lam thắng cảnh trung hòa được cả vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp Phật giáo không thể không kể đến chùa Hương.
Chùa Hương là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia, bao gồm nhiều ngôi đền, chùa, hang động đẹp, linh thiêng, nằm gần con sông Đáy, tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Về thời gian hình thành, chùa Hương được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII thời vua Lê – chúa Trịnh khi chúa Trịnh Sâm còn tại vị. Tuy ngôi chùa này rất nổi tiếng tại nước ta nhưng chùa Hương tại Hà Nội không phải là ngôi chùa Hương gốc, chùa là phiên bản của chùa Hương Tích tại Hà Tĩnh.
Lịch sử ghi chép lại rằng, sở dĩ xây dựng thêm chùa Hương tại Hà Nội vì phi tần của chúa Trịnh, đoạn đường từ kinh đô đến chùa Hương rất xa khiến chúa Trịnh không yên tâm mỗi dịp phi tần đi trẩy hội chùa Hương vì thế chúa Trịnh đã cho xây một ngôi chùa Hương khác tại vùng núi Hà Sơn Bình, góp phần tạo nên một chùa Hương kỳ ảo, thơ mộng.
Có thể nói, chùa Hương là sự giao thao hài hòa giữa nét đẹp thiên nhiên kỳ vĩ và vẻ đẹp tâm linh huyền bí, thiêng liêng. Ấn tượng đầu tiên khi đến với quần thể di tích chùa Hương là suối Yến trải dài, nhẹ nhàng trôi. Từ bến Trò qua một đoạn suối đến đến Trình thuộc quần thể chùa Hương, dâng hương báo cáo với thần Tướng người đến tham quan. Trên dòng suối Yến xuôi về khu vực chính của chùa Hương, du khách đi thuyền khoảng tiếng rưỡi thời gian, hai bên bờ suối có những núi, hòn trải dọc. Khu vực chính của chùa Hương được chia làm hai khu vực: chùa Ngoài và chùa Trong.
Chùa Ngoài tức là chùa Thiên Trù nằm tại chân núi Hà Sơn Bình có kiến trúc kiểu “ Ngũ môn tam cấp”, diện tích chùa rộng, đi sâu vào khu bảo thềm thứ ba là Tam Bảo nơi thờ Phật, dâng lễ, dâng hương. Đi tiếp qua Tam bảo là khu vực điện thờ thánh mẫu, gác tàng thư, nhà Tổ, tháp Thiên Thủy. Từ chùa Ngoài đến chùa Trong trên đỉnh núi là đoạn đường khá xa, khoảng 2 – 3 km, du khách có thể chọn đi bộ hoặc đi cáp treo, đường đến chùa Trong hầu hết là đường đất, có nhiều bậc thang, khá quanh co. Các chùa Giải Oan, chùa Hinh Bồng, chùa Tiên,…. Nằm phân bố trên đoạn đường lên núi.
Khác với chùa Thiên Trù, chùa Trong không phải do bàn tay con người xây dựng nên mà do thiên nhiên, tạo hóa ban tặng, chùa Trong hay “ Nam Thiên đệ nhất động” Hương Sơn động là hang động hùng vĩ ,huyền ảo. Từ chính diện cửa động đi vào là nơi thờ Phật chính, đặt tượng phật Bà Quan Âm, càng khám phá sâu bên trong động, càng thấy nhiều hòn mang hình thù gần gũi với con người như hòn Đụn gạo, núi Cô, núi Cậu,…..
Với vẻ đẹp kỳ ảo như vậy, chùa Hương đã trở thành một trong những điểm đến của nhiều du khách trong và ngoài nước, mỗi dịp lễ hội chùa Hương, mùng 6 tháng Chạp Âm Lịch hàng năm, chùa Hương trở nên nhộn nhịp, có nhiều hoạt động văn hóa truyền thống như hát chèo, hát quan họ trên suối Yến. Không chỉ vậy, chùa Hương chính là nhân chứng của lịch sử, chứng kiến những thăng trầm, thay đổi triều đại, chiến tranh suốt ba thế kỷ, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chùa Thiên Trù thuộc quần thể chùa Hương đã bị bom Pháp tàn phá nặng nề. Ngoài ra, chùa Hương đóng góp một phần không nhỏ giúp ngành du lịch nơi đây phát triển, mang lại nguồn lợi khổng lồ cho người dân.
Như vậy, quần thể di tích chùa Hương là sự hội tụ của những nét đẹp thiên nhiên, tạo hóa cùng với vẻ đẹp tâm linh, hơi thở Phật giáo, du khách vừa được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vừa được sống chậm lại, thư thái, bình yên tại đất linh thiêng.
Em tham khảo các thông tin ở đây:
Chùa Ngô Xá, nơi lưu giữ bảo vật Quốc gia