K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

7 tháng 12 2016

. Để bảo vệ rừng trồng, cần:
+ Trồng thật nhiều cây xanh ở các đường, phố, nơi sinh sống của mình.
+ Tuyên truyền bảo vệ rừng, phát động phong trào "trồng cây gây rừng"
+ Nghiêm cấm các hành vi khai thác, đốt rừng trái phép.
+ Nghiêm cấm những hành vi khai thác tài nguyên rừng không đúng quy định.
+ ...
 

20 tháng 12 2023

Để bảo vệ rừng trồng, cần:
+ Trồng thật nhiều cây xanh ở các đường, phố, nơi sinh sống của mình.
+ Tuyên truyền bảo vệ rừng, phát động phong trào "trồng cây gây rừng"
+ Nghiêm cấm các hành vi khai thác, đốt rừng trái phép.
+ Nghiêm cấm những hành vi khai thác tài nguyên rừng không đúng quy định

30 tháng 12 2023

Câu 1: Rừng bao gồm các thành phần chính như cây, động vật, vi sinh vật và môi trường sinh thái. Ở Việt Nam, có các loại rừng như rừng nhiệt đới, rừng ôn đới, rừng ngập nước và rừng biển. Mỗi loại rừng đều đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hệ sinh thái, cung cấp nguồn tài nguyên sinh vật và hấp thụ khí CO2.

Câu 2: Hiện nay, rừng của Việt Nam đang bị tàn phá nghiêm trọng do khai thác mạnh mẽ, chuyển đổi đất rừng sang mục đích khác. Để góp phần bảo vệ rừng, bạn có thể tham gia các hoạt động như tham gia các chiến dịch trồng cây, tuyên truyền về bảo vệ rừng và tham gia các tổ chức hoặc nhóm người ủng hộ bảo vệ rừng.

Tham khảo

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu làm giàu của con người ngày càng cao, họ có thể bất chấp tất cả mọi điều để đạt được những gì mà mình mong muốn, chính vì vậy rừng là một nguồn tài nguyên mà đem lại cho họ nhiều lợi lộc nhất, chính vì thế mặc dù rừng là nguồn sống, là tài nguyên vô giá của đất nước ta, nhưng nó cũng đang đứng trước nguy cơ bị tàn phá một cách nghiêm trọng và đáng báo động nhất.

Rừng không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của dân tộc, nó còn là lá phổi xanh của cả đất nước, nhưng lá phổi xanh đó lại dần bị mất đi, đang dần bị con người chúng ta tần phá một cách nghiêm trọng nhất, đang đứng trước nguy cơ bị tiệt chủng và xóa sổ rừng. Liệu rằng lá phổi xanh mà bị phá hủy đi thì con người chúng ta sẽ ra sao, cuộc sống sẽ đến bước đường nào, khi không khí ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng, nước ngày càng khan hiếm và nguy cơ nhiễm các nguồn kim loại nặng ngày càng cao. Chính con người đang dần hủy hoại cuộc sống của họ chứ không phải ai khác.

Khi thấy hiện tượng chặt phá rừng ngày càng gia tăng thì bản thân là một người sống trong xã hội đó, tôi luôn cảm thấy cuộc sống của mình ngày càng bị đe dọa, và nguy cơ mất trắng rừng là ngày càng cao. Lợi ích trước mắt đã làm lu mờ đi ý chí và những quyết định đúng đắn của mỗi con người, họ sẽ làm tất cả những gì mà họ cần, đó là lợi ích, chứ không phải một lợi ích lâu dài, đó là gìn giữ được giá trị của dân tộc, gìn giữ được bản sắc, cũng như tinh hoa văn hóa của đất nước Việt Nam, mỗi con người chúng ta đều có thể thấy được điều đó.

Mặc dù báo chí và các phương tiện truyền thông khác cũng phản ánh một cách chân thực hiện tượng hiện nay, nhưng nó cũng chỉ làm giảm thiểu được đi phần nào sự phá rừng của mỗi người. Cách khai thác trái phép rừng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ cuộc sống cũng như vận mệnh của đất nước.

Mỗi chúng ta đang dần bị ảnh hưởng bởi những hành động chưa đúng của con người, cuộc sống đang ngày bị đe dọa, khi nhiệt độ trái đất ngày càng tăng, con người đổ xô chặt phá rừng để xây dựng những khu công nghiệp, hay là để thu lợi từ bán gỗ, tất cả những điều đó hậu quả nghiêm trọng cũng đều là con người phải gánh phải.

Thay từ rừng --> tôi sẽ đúng yêu cầu của đề nha....

24 tháng 5 2016

     Chắc đủ dài roay!  banh

Tài nguyên rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của loài người, rừng là cái nôi của sự sống, là lá phổi xanh của nhân loại, có giá trị to lớn trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước chống xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, cung cấp nguồn nước sạch sinh hoạt và sản xuất cho con người. Rừng là bảo tàng sống sinh động nhất, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, trong đó có nhiều nguồn gen quý hiếm. Rừng phục vụ cho việc phát triển các ngành nông nghiệp, thủy lợi, thủy điện, công nghiệp, du lịch, an ninh quốc phòng,... Ngoài ra sản phẩm của rừng như gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng các dân tộc từ miền núi, nông thôn đến thành thị.

Từ xưa đến nay, nói đến giá trị của rừng ông cha ta thường kể đến các loài gỗ quý như đinh, lim, sến, táu, dổi, vàng tâm,... để xây dựng nhà cửa, đóng đồ mộc trang trí trong nhà chứ ít ai nhắc đến các sản vật khác lấy từ rừng, có nhiều lúc những sản phẩm tưởng như rất đơn giản này lại chính là cứu cánh cho sự sống còn, tồn vong và phát triển của con người, đó là các loài cây cho lương thực, thực phẩm thu hái trong rừng vào những năm đói kém hay vào thời gian giáp hạt, những căn bệnh hiểm nghèo duy nhất chỉ trông chờ vào các phương thuốc quý giá từ cây cỏ trong thiên nhiên. Những loại sản vật kể trên nói theo cách ngày nay được gọi là lâm sản ngoài gỗ (LSNG).

Rừng nước ta thuộc vùng nhiệt đới nên rất đa dạng và phong phú, cho đến nay về thực vật đã ghi nhận 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 2.524 chi của 378 họ. Về động vật ghi nhận 289 loài thú, 828 loài chim, 258 loài bò sát và 82 lưỡng cư và 1.340 loài côn trùng. Nghệ An là một trong những tỉnh có tài nguyên và diện tích rừng lớn nhất cả nước, riêng Vườn quốc gia Pù Mát đã ghi nhận 2.494 loài thực vật và 919 loài động vật, còn hai Khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) là Pù Huống, Pù Hoạt và nhiều khu rừng khác chưa được điều tra đầy đủ đang ẩn chứa đựng nhiều loài động thực vật có giá trị.

Phần lớn người dân sống ở các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa là đồng bào các dân tộc thiểu số như Thái, Kh'Mú, H'Mông, Thổ, Ơ Đu... từ lâu sống chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Ngoài lấy gỗ để xây dựng nhà cửa thì con người sử dụng rất nhiều loài lâm sản khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất hàng ngày. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển, tốc độ gia tăng dân số càng nhanh, áp lực về lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, tình trạng chặt phá rừng diễn ra gay gắt, tài nguyên rừng bị suy thoái nghiêm trọng, chất lượng rừng giảm sút và xuống cấp đáng báo động, nhất là các khu rừng đặc dụng, người dân vẫn công khai hoặc lén lút chặt phá, khai thác các sản phẩm từ rừng, làm cho tài nguyên này trở nên cạn kiệt, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ diệt chủng.

Lâu nay nói đến bảo tồn tài nguyên rừng người ta thường quan tâm đến những nguồn gen cây gỗ hay một loài động vật đang bị tuyệt chủng, loài quý hiếm, đặc hữu nào đó hay là toàn bộ hệ sinh thái rừng đặc trưng cho vùng, cho một khu vực mà chưa quan tâm đến yếu tố mang lại nguồn lợi cho người dân để nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, giảm áp lực phá rừng bừa bãi, đó là các sản phẩm LSNG. Trong một thời gian dài các sản phẩm LSNG bị xem thường và đến một lúc nào đó nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát triển chúng thì không những ảnh hưởng đến đời sống của người dân miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn đe dọa suy thoái tính đa dạng sinh học của rừng, hệ sinh thái rừng.

Thực trạng khai thác lâm sản ngoài gỗ.

Qua tìm hiểu thực tế một số huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương,... cho thấy có nhiều loài quý hiếm, loài cấm hoặc hạn chế khai thác, loài có giá trị cao đang bị khai thác quá mức. Trong đó nhiều loài làm thuốc chữa bệnh có giá trị như bách bộ (Stemona tuberosa Lour.), thổ phục linh (Smilax glabra Roxb.), củ mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk.), lá khôi (Ardisia sylvestris Pit.), cốt toái bổ (Drynaria bonii Christ), đẳng sâm (Condonopsis javanica (Blume) Hook.f.), ba kích (Morinda officinalis F.C.How.), sắn dây rừng (Pueraria montana (Lour.) Merr.),...

Nhiều loài đan lát thủ công mỹ nghệ như song mây, theo người dân sống ở vùng đệm Pù Huống, trước đây đi vào rừng chỗ nào cũng gặp nhưng đến nay trở nên hiếm, nguyên nhân do người dân khai thác quá mức, người dân lại có phong tục ngoài lấy thân mây trưởng thành còn đào lấy cả chồi non (đọt mây) làm rau ăn nên nguồn giống bị mất dần đến nay trở nên hiếm, cho nên việc tìm giống ở địa phương để gây trồng gặp khó khăn.

Nhiều loài cây cho tinh dầu cũng bị khai thác lạm dụng. Quế là một trong những loài bản địa có giá trị, trước đây sản phẩm nổi tiếng quế quỳ và quế quảng đã được thương lái Sài Gòn thu mua, qua con đường Hồng Kông xuất khẩu sang Hoa Kỳ, bán trên thị trường San Francisco với thương hiệu "Sai gon cassia". Trong đó quế quỳ được xếp vào loại nhất (theo Tập san kinh tế Viễn đông, quý IV năm 1941). Do đó, quế quỳ được mệnh danh là "Nhất quế quỳ, nhì quế quảng". Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp một phần Nhà nước phát động trồng quế đại trà nên có nhiều nguồn giống quế được đem vào trồng, một phần quế quỳ nổi tiếng nên bị khai thác quá mức do vậy mà ngày nay nguồn gen quý hiếm này có nguy cơ biến mất và khó xác định. Một loài khác cho giá trị tinh dầu quý là trầm hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte) cũng là đối tượng săn lùng những năm 1990 -1995 nên bị khai thác kiệt quệ, cây trong rừng tự nhiên trở nên hiếm. Các loài như vù hương (Cinnamomum balansae Lecomte), re hương (Cinnamomum parthenoxylon Meisn.) bị đe dọa cao, trong rừng tự nhiên chúng bị khai thác toàn bộ cây chưng cất tinh dầu nên cạn kiệt dần. Cây dây nhớt (Tiliacus sp.) làm hương liệu, được thu mua nhiều trên thị trường, cho thu nhập cao, nhưng người dân thường tước vỏ từ gốc đến ngọn cây nên cây dễ bị chết. Hương bài cũng cho một loại tinh dầu quý nhưng cho đến nay vẫn chưa được chú ý gây trồng và phát triển. Các loài cây cho hương liệu khác chủ yếu được nhân dân thu hái trong rừng bán hoặc sử dụng vào công dụng khác.

Đối với mật ong rừng thì người dân còn có tập tục là khai thác cả tổ, lấy mật và bắt luôn cả đàn ong ngâm rượu nên lượng mật ong khai thác bị giảm đáng kể, do đó khi khai thác ngoài khai thác đúng mùa vụ cho mật thì không nên bắt ong con, trừ trường hợp gây nuôi. Còn với cánh kiến đỏ, trước đây là một nghề truyền thống của đồng bào vùng cao xã Quang Phong, Cắm muộn,... (huyện Quế Phong), Hữu Kiệm, Hữu Lập,... (huyện Kỳ Sơn) nhưng theo thời gian bị mai một dần. Hiện nay, các ngành, các cấp đang giúp người dân khôi phục và phát triển, gây nuôi trên các cây rừng tự nhiên như đậu thiều, píc niễng,...

Kết quả khảo sát thu mua LSNG tại 3 huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Quế Phong cho thấy có 10 loại sản phẩm LSNG bị suy giảm nghiêm trọng bao gồm sắn dây rừng, hoàng đằng, thổ phục linh, thiên niên kiện, bách bộ, cẩu tích, vỏ dây nhớt, lá khôi, rễ chay, củ mài. Có 7 sản phẩm tương đối ổn định, ít biến động như hoa chít, quả tai chua, quả sa nhân sẹ, quả cau, dây guột, nhựa cánh kiến đỏ, vỏ quế. Có một loại sản phẩm măng là tăng dần theo các năm.

Nguyên nhân suy thoái tài nguyên lâm sản ngoài gỗ.

Nguyên nhân trực tiếp.

1. Cách thu hái, khai thác chưa phù hợp: Nhiều loài bị khai thác không đúng với bộ phận sử dụng của chúng hoặc khai thác đúng bộ phận nhưng lại khai thác kiệt. Ví dụ như lá khôi thì chỉ cần thu hái lá mà không cần đào cả thân, rễ. Những cây lấy quả hạt như trám, tai chua, dẻ,... chỉ thu hái quả mà không cần phải đốn cả cây. Cây lấy rễ củ như bách bộ, hoàng đằng, thổ phụ linh, cẩu tích, hà thủ ô trắng, củ mài... chỉ nên thu hái một phần rễ cho cây tái sinh hoặc thu hái xong phải lấp chồi gốc lại cho tái sinh mùa sau. Những cây lấy thân, măng như các loài tre nứa thì không khai thác kiệt hết cả khóm bụi mà nên chừa lại một số cây cho tái sinh, phát triển mùa sau. Như vậy do hình thức thu hái không phù hợp mà nhiều loài mất giống, loài không còn khả năng tái sinh, loài không kịp tái sinh dẫn tới sẽ bị diệt vong.

2. Lịch thu hái một số loài LSNG không đúng thời vụ: Trong hoạt động sản xuất cũng như tự nhiên thì các loài cây sẽ cho các sản phẩm có chất lượng cao trong một thời gian, mùa vụ nhất định, do đó mà khi thu hái con người phải biết vận dụng để mang lại hiệu quả cao nhất. Kết quả khảo sát 50 loài, nhóm loài chính được trao đổi buôn bán trên thị trường cho thấy có 19 loại sản phẩm thu hái cả năm, 31 loại thu hái theo mùa vụ. Tuy nhiên, đối với các loài thu hái cả năm, người dân khai thác cả thời kỳ cây ra hoa kết quả, điển hình là các loài song mây, rễ chay, hoàng đằng, sắn dây rừng, dây nhớt,... dẫn tới nhiều loài không còn nguồn hạt để phát tán, dẫn giống mở rộng phạm vi phân bố cho các thế hệ tiếp theo do đó cây trở nên khan hiếm dần nguy cơ đe dọa diệt chủng. Nhiều loài cây khai thác đúng mùa vụ như cây lấy quả như quả sa nhân sẹ, sở, trẩu, dẻ,... Nhưng muốn nâng cao năng suất và chất lượng thì người dân phải làm giàu rừng, xúc tiến tái sinh tự nhiên bằng cách trồng thêm, khoanh nuôi các loài cây trên để tạo ra hàng hóa cho thu nhập cao và ổn định.

3. Cường độ khai thác LSNG quá cao: Kết quả điều tra tại một điểm thu mua LSNG ở bản Nật Trên cho thấy trong năm 2003 (từ tháng 10 đến tháng 12) khối lượng thu mua rễ hoàng đằng mỗi ngày 1 tấn, sang năm 2005 cũng thời gian đó, mỗi ngày chỉ thu mua được 0,3 tấn. Một người dân mỗi ngày thu hái hái cho thu nhập 60.000 - 70.000 đồng cao hơn nhiều lần so với làm rẫy. Việc thu mua LSNG với khối lượng không hạn chế đồng nghĩa với việc người dân tăng cường cường độ khai thác, họ huy động mọi n...

25 tháng 5 2016

j

20 tháng 12 2023

Hiện nay môi trường sống đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi khí thải, chất thải của các nhà máy, xí nghiệp, rác thải sinh hoạt, tiếng ồn của các phương tiện giao thông, nạn phá rừng bừa bãi ... Vậy chúng ta cần làm gì để bảo vệ môi trường? Em hãy kể một việc làm tốt của mình góp phần bảo vệ môi trường. Qua đây em muốn nhắn gửi điều gì đến mọi người để bảo vệ môi trường sống trở lên xanh-sạch-đẹp.

 

 
13 tháng 1 2022

a/ Nếu rừng đầu nguồn bị tàn phá thì đất sẽ nhanh chóng bị xói mòn và lũ lụt xảy ra ngày càng dữ tợn hơn.

 

b/ Chúng ta chẳng những phải bảo vệ rừng chúng ta còn phải trồng cây gây rừng.

 

c/  nhiều người sản xuất, kinh doanh hám lợi, sử dụng những hóa chất độc hại nên trên thị trường có nhiều thực phẩm không an toàn cho sức khỏe.

13 tháng 1 2022

a/Nếu...thì

b/không những...mà

c/Vì...nên

Câu 1: Tình hình rừng ở nước ta hiện này là:A. Diện tích đang tăngB. Đang bị tàn phá nghiêm trọngC. Diện tích rừng giảm không đáng kểD. Không tăng không giảmCâu2: Điều kiện áp dụng khai thác rừng hiện nay ở Việt Nam là:A. Chỉ được khai thác dần C. Chỉ được khai thác trắngB. Chỉ được khai thác chọn D. Cả 3 loại khai thácCâu 3: Rừng cần được bảo vệ vì:A. Là nơi cư trú cho các loài...
Đọc tiếp

Câu 1: Tình hình rừng ở nước ta hiện này là:

A. Diện tích đang tăng

B. Đang bị tàn phá nghiêm trọng

C. Diện tích rừng giảm không đáng kể

D. Không tăng không giảm

Câu2: Điều kiện áp dụng khai thác rừng hiện nay ở Việt Nam là:

A. Chỉ được khai thác dần C. Chỉ được khai thác trắng

B. Chỉ được khai thác chọn D. Cả 3 loại khai thác

Câu 3: Rừng cần được bảo vệ vì:

A. Là nơi cư trú cho các loài sinh vật, nơi nghiên cứu môi trường.

B. Cải biến khí hậu, tạo cân bằng sinh thái, tham gia vào các chu trình sống.

C. Là nguồn tài nguyên quý giá cho đất nước.

D. Cả 3 câu a, b, c.

Câu 4: Mục đích của việc khoanh nuôi phục hồi rừng:

A. Giữ gìn tài nguyên rừng hiện có.

B. Tạo điều kiện phục hồi những rừng bị mất, phát triển thành rừng có sản lượng cao.

C. Tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng, tỉ lệ sống cao.

D. Cả 3 câu a,b,c.

Câu 5. Khai thác rừng có các loại sau:

A. Khai thác trắng và khai thác dần.

B. Khai thác dần và khai thác chọn.

C. Khai thác trắng, khai thác dần và khai thác chọn.

D. Khai thác chọn và khai thác toàn bộ.

Câu 6. Khi tiến hành khai thác rừng thì chúng ta phải:

A. Chọn cây còn non để chặt.

B. Khai thác trắng khu vực trồng rừng.

C. Chặt hết toàn bộ cây gỗ quý hiếm.

D. Phục hồi rừng sau khi khai thác.

Câu 7. Nhiệm vụ trồng rừng của nước ta trong thời gian tới là:

A. Khai thác rừng phòng hộ.

B. Khai thác rừng ở nơi đất dốc.

C. Khai thác trắng sau đó trồng lại.

D. Tham gia phủ xanh 19,8 triệu ha đất lâm nghiệp.

Câu 8: Vai trò của chăn nuôi trong nền kinh tế gồm:

A. Cung cấp phương tiện di chuyển, sức kéo.

B. Cung cấp lương thực, thực phẩm.

C. Sản xuất vắc-xin.

D. Tất cả đều đúng

Câu 9: Giống vật nuôi quyết định đến

A. năng suất và chất lượng sản phẩm vật nuôi .

B.lượng thịt.

C. lượng mỡ.

D.lượng sữa

Câu 10: Vai trò của giống vật nuôi trong chăn nuôi là:

A. Cung cấp thực phẩm cho ngành sản xuất.

B. Giống vật nuôi quyết định đến năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi.

C. Cung cấp sản phẩm cho tiêu dùng trong nước.

D. Cung cấp sức kéo và phân bón.

Câu 11: Dựa vào hướng sản xuất chính của vật nuôi mà chia ra các giống vật nuôi khác nhau là cách phân loại nào sau đây:

A. Theo mức độ hoàn thiện của giống . B. Theo địa lí.

C. Theo hình thái, ngoại hình. D. Theo hướng sản xuất.

Câu 12: Vật nuôi nào sau đây được phân loại theo đặc điểm ngoại hình?

A. Bò vàng Nghệ An B. Bò lang trắng đen

C. Lợn Đại Bạch D. Lợn Móng Cái

Câu 13: Sự phát triển của vật nuôi có mối liên quan gì với sự sinh trưởng và phát dục?

A. Sự sinh trưởng và phát dục xảy ra cùng một lúc.

B. Sự sinh trưởng và phát dục xảy ra xen kẽ, không liên quan gì nhau.

C. Sự sinh trưởng và phát dục xảy ra xen kẽ, hỗ trợ lẫn nhau.

D. Cả 3 đáp án trên đều sai.

Câu 14: Sự phát dục của vật nuôi là:

A. Sự tăng lên về khối lượng các bộ phận của cơ thể.

B. Sự phát triển của hợp tử và hệ tiêu hoá.

C. Sự thay đổi về chất của các bộ phận trong cơ thể.

D. Sự tăng lên về kích thước các bộ phận của cơ thể.

Câu 15: Sự sinh trưởng của vật nuôi là:

A. Sự tăng lên về khối lượng các bộ phận của cơ thể.

B. Sự tăng lên về khối lượng, kích thước các bộ phận của cơ thể.

C. Sự thay đổi về chất của các bộ phận trong cơ thể.

D. Sự tăng lên về kích thước các bộ phận của cơ thể.

MN giúp mik nhé mik cảm ơn ak!!!!hihi

2
29 tháng 7 2021

Mình cảm thấy câu hỏi này nên để vào box địa hợp lí hơn ý

29 tháng 7 2021

1A

2D

3D

4D

5C

6D

7D

8D

9A

10B

11A

12B

13C

14D

15B

29 tháng 7 2021

Tình hình rừng ở nước ta hiện nay:

A. Diện tích đang tăng

B. Đang bị tàn phá nghiêm trọng

C. Diện tích rừng giảm không đáng kể

D. Không tăng không giảm

* Nếu sai thì thông cảm ạ :) *