K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Anh Kim Đồng

Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã Xuân Hòa (nay là Trường Hà), Hà Quảng, Cao Bằng

Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời (1941).

Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng.

Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.

Từ năm 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền được anh trai và anh cán bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các anh làm các công việc: canh gác, chuyển thư từ, nghe nói chuyện về tội ác của quân giặc… nhờ đó Dền đã sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền đã mau chóng làm quen với cách thức làm công tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyển thư từ, đưa đường cho cán bộ lọt qua sự bao vây, canh gác của địch.

Năm 1941, Bác Hồ về Pắc Pó, Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn cứ cách mạng.

Bước sang năm 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pắc Pó. Trong một lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có cán bộ của ta, Kim Đồng đã nhanh trí nhử cho bọn địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thoát lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin.

Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng Âm lịch năm 1943, Anh vừa tròn 14 tuổi.

Ngày nay, mộ của Kim Đồng đã được đội viên cả nước góp phần xây dựng tại nơi anh ngã xuống. Ngày 15-5-1986, nhân kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đội, mộ của Anh và tượng người đội viên liệt sĩ anh hùng Kim Đồng đang tung con chim sáo bay lên đã được khánh thành. Từ đó đến nay nơi đây đã trở thành khu di tích Kim Đồng chào đón các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến nơi thành lập Đội TNTP, với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, có núi Các Mác và hang Pắc Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam.

Anh Lê Văn Tám

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp gây hấn ở Nam bộ hòng cướp lại nước ta một lần nữa. Năm ấy, ở gần chợ Đa Kao thành phố Sài Gòn có một em bé con nhà nghèo phải đi bán lạc rang, đánh giầy để kiếm sống. Tên em là Tám

Lê Văn Tám thường lân la tới những nơi có quân Pháp đóng để bán hàng, đánh giầy. Tám tỏ ra hiền lành, nhút nhát nên đã được bọn lính Pháp để cho đi qua, đi lại và dần dần quen mặt em. Tại Thị Nghè, có một kho xăng, đạn lớn của địch. Hình ảnh những hòm đạn, những trái bom hiện ra trong trí nhớ của Tám cùng những cảnh tàn phá, giết chóc dã man của địch đối với đồng bào ta đã thôi thúc em tính đến một việc làm táo bạo. Tám nảy ra ý định sẽ phá kho xăng đạn này.

Sau mấy hôm dò la quan sát địch. Tám giấu dầu xăng trong người, thản nhiên khoác hòm lạc rang đến bán cho lính gác như thường lệ. Lợi dụng lúc bọn địch không để ý Tám chạy nhưng bay vào chỗ để xăng và xèo diêm. Dầu xăng trong người Tám bốc cháy và bén luôn vào thùng xăng gần nhất. Thế là cả kho xăng bốc cháy đùng đùng rồi lan tới chỗ để bom đạn. Tiếng nổ ầm trời, khói lửa mịt mù cả thành phố.

Lê Văn Tám đã anh dũng hy sinh và để lại trong trí nhớ nhân dân Thành đồng Tổ quốc hình ảnh: Em bé đuốc sống của thành phố mang tên Bác của dân tộc Việt Nam

Anh Vừ A Dính

Anh hùng Lực lượng vũ trang Vừ A Dính, dân tộc Mông, sinh ngày 12-9-1934 tại bản Đề Chia, xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên).

Vừ A Dính là con thứ ba của ông Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị Plây (sinh năm 1901).

Gia đình Vừ A Dính là cơ sở cách mạng của huyện Tuần Giáo.

Bố Vừ A Dính là cán bộ Việt Minh của địa phương đã bị thực dân Pháp bắt và giam cầm tại nhà tù Sơn La. Ông đã bị thực dân Pháp thủ tiêu tại nhà tù Sơn La năm 1949. Ông Vừ Chống Lầu được Đảng và Nhà nước truy tặng là liệt sĩ ngày 5-9-1964.

Mẹ A Dính là bà Sùng Thị Plây - một cơ sở kháng chiến của địa phương. Trong một đợt càn của địch vào Pú Nhung, vì nghi ngờ tiếp tế cho Việt Minh nên bà bị bắt cùng với bố chồng và bảy người con (chị gái và các em của Vừ A Dính) mang về giam tại đồn Bản Chăn. Rất may là người anh trai Vừ Gà Lử của Dính hôm ấy vào núi nên không bị bắt. Trong thời gian bà và cả nhà bị giam tại đồn Bản Chăn, Vừ A Dính được đơn vị phái xuống tìm cách liên lạc và nắm tình hình địch để chuẩn bị cho bộ đội đánh đồn. A Dính đã nhiều lần liên lạc được với mẹ. Khi nắm được tin giặc Pháp chuẩn bị đưa quân lên đánh khu du kích ở Pú Nhung, bà đã trốn trại ra bìa rừng gặp Vừ A Dính cấp báo tin này. Bà còn chuyển cho Vừ A Dính hơn 100 viên đạn lấy trộm được của giặc. Trên đường trở về trại giam, một tốp lính đi tuần phát hiện ra bà. Tuy khám người bà không thu được gì nhưng chúng nghi bà liên lạc với Việt Minh nên đã khám nơi giam cầm bà. Địch đã phát hiện ra nhiều đạn mà bà và các con cùng những người bị giam giữ trong trại đã lấy trộm của lính Pháp trong khi đi làm phu dịch. Giặc pháp đã lôi cả 22 người trong trại giam ra bắn chết. Ông nội, mẹ, chị gái và các em - 9 người trong gia đình Vừ A Dính đã bị bắn chết. Bà Sùng Thị Plây được Đảng và Nhà nước truy tặng Liệt sĩ ngày 14-10-1964. Mẹ của Vừ A Dính đã được Chủ tịch Nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu tiên (năm 1994) vì có chồng, con và bản thân là liệt sĩ.

Vừ A Dính sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Mông có truyền thống yêu nước và cách mạng. Ngay từ nhỏ, Dính là một cậu bé thông minh, gan dạ và nhanh nhẹn. Được cha mẹ giáo dục, Vừ A Dính đã sớm giác ngộ cách mạng và căm thù giặc Pháp xâm lược. Pú Nhung luôn bị giặc đột kích vào cướp bóc, đốt nhà, bắt người. Vì thế dân làng phải cử người canh gác để phát hiện giặc. Chưa đầy 13 tuổi nhưng Vừ A Dính đã xung phong được đi canh gác như các anh chị lớn. Lần ấy, giặc Pháp không đi từ Tuần Giáo lên mà chúng bí mật xuyên rừng Bản Chăn lên cướp phá. Khi phát hiện ra giặc Vừ A Dính vội lao về bản, vừa đi vừa hô to “Có thằng Tây ! Có thằng Tây !”. Dân bản vội chạy vào rừng. A Dính chạy vội về nhà xem mẹ và các em đã vào rừng hay chưa thì gặp một toán lính xồ tới. Bọn này đi bắt phu khuân của cướp bóc được về đồn cho chúng. Thế là chúng bắt luôn A Dính đi theo để khiêng lợn cho chúng. A Dính cắn răng gắng sức cõng một cái rọ nhốt con lợn to. Đến một con dốc cạnh bờ suối, A Dính dự định lợi dụng địa hình này để chạy trốn. Cậu giả cách trượt chân lăn theo cả rọ lợn xuống dốc. Chẳng may cho A Dính, lăn tới cuối dốc cậu bị một cây gỗ chặn ngang người. Cái rọ lợn bung ra, con lợn chạy biến vào rừng. Bọn giặc chạy ào xuống vừa đánh vừa lôi Dính về giam tại đồn Bản Chăn. Tên đồn trưởng người Pháp ra lệnh cho thuộc hạ: “Nó làm mất con lợn, nó phải thế mạng”. Khi biết sáng sớm mai sẽ bị giết, đêm ấy Vừ A Dính đã rủ ông già Vừ Sa ở bản Phiêng Pi cùng bị bắt giam với mình dỡ mái trại giam, bò qua nhiều bốt canh để trốn thoát ra ngoài.

13 tuổi Vừ A Dính đã thoát ly gia đình trở thành đội viên liên lạc của đội vũ trang huyện Tuần Giáo. Đội vũ trang của Vừ A Dính hoạt động trên một địa bàn rất rộng, từ châu Điện Biên ra châu Tuần Giáo rồi ngược lên châu Tủa Chùa. Dấu chân của Dính và đội vũ trang in khắp núi rừng và các thôn bản trong huyện. Đội vũ trang thoắt ẩn, thoắt hiện tại nhiều bản làng để vận động, giúp đỡ bà con các dân tộc ổn định cuộc sống, xây dựng các tổ chức đoàn thể cách mạng, bí mật tổ chức kháng chiến, đánh Pháp xâm lược.

Cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng Vừ A Dính rất lạc quan yêu đời. Dính rất ham học và học khá. Lúc nào trong ngực áo của Dính cũng nhét cuốn sách để tranh thủ học. Dính đã học đọc và viết chữ thông thạo. Khuôn mặt tròn, đôi mắt tinh nhanh, chân tay thoăn thoắt là hình ảnh chiến sĩ nhỏ Vừ A Dính hằn sâu trong mắt các chiến sĩ của đội vũ trang Tuần Giáo.

Địch tăng cường lùng sục tìm diệt đội vũ trang nên đơn vị luôn phải di chuyển. Để giữ bí mật, địch không thể phát hiện được, nơi đóng quân của đơn vị thường ở trên các triền núi cao, xa nguồn nước. Vì thế mà cuộc sống vô cùng gian khổ. Hàng tháng trời không một hạt muối, không một hạt gạo. Để có nước cho sinh hoạt, đơn vị của Dính đã có sáng kiến chặt ngang thân cây chuối rồi khoét ruột cây chuối để lấy nước. Dính được đơn vị giao phụ trách việc lấy nước này và Dính đã làm rất khéo léo, luôn bảo đảm để đơn vị có đủ nước dùng. Nhiệm vụ chính của Dính là làm giao thông liên lạc. Lần nào nhận nhiệm vụ đi liên lạc Dính cũng mưu trí, bảo đảm an toàn và về trước thời gian qui định. Các anh trong đơn vị hỏi tại sao Dính luồn rừng và đi giỏi thế, Dính cười hồn nhiên bảo: “Từ nhỏ em trèo núi, đi nhanh đã quen chân rồi”. Dính còn nhiều lần được đơn vị giao nhiệm vụ bí mật xuống bản móc nối liên lạc với cơ sở để nhận muối, mực viết, kim chỉ, giấy viết, vải mặc và thuốc men mà đồng bào xuống chợ mua hộ. Mẹ của Dính cũng là một cơ sở bí mật tin cậy, nhiều lần tiếp tế cho đội vũ trang như thế.

Được tin mẹ và cả nhà bị địch bắt giam tại đồn Bản Chăn, Dính buồn và thương mẹ lắm. Biết tin đơn vị chuẩn bị đánh đồn Bản Chăn, Dính đã đề nghị được xuống núi điều tra nắm tình hình địch và nhân tiện tìm hiểu tin tức về mẹ và cả nhà. Đã từng bị bắt giam ở đồn Bản Chăn nên đường đi, lối lại Dính khá thuộc. Vì thế, anh Kiên chỉ huy đơn vị đã đồng ý để Dính xuống núi. Anh dặn kỹ Dính những việc phải điều tra.

Dính như con sóc lao xuống núi. Được du kích Bản Chăn bí mật dẫn ra mỏm núi gần đồn để quan sát. Mai phục suốt hai ngày đêm liền Dính vẫn không thấy những người bị giam ra khỏi trại. Đoán định thể nào địch cũng phải cho người ra lấy nước nên sáng sớm hôm thứ ba, Dính đã bí mật làm ống bương đựng nước rồi bí mật nấp sau một tảng đá sát bên mép suối. Khi đám người bị bắt giam được lính đồn dẫn ra suối lấy nước, Dính đã nhanh chóng trà trộn vào mà địch không hề phát hiện ra. Đêm ấy Dính đã được nằm cạnh mẹ và các em. Mẹ đã cung cấp nhiều tin tức quan trọng cho Dính về đồn Bản Chăn. Dính còn động...

17 tháng 11 2018

Đặng Thùy Trâm (1942-1970) sinh ra trong gia đình trí thức ở Hà Nội. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp loại ưu, chị xung phong vào chiến trường miền Nam. Sau 3 tháng hành quân, tháng 3/1967, Thùy Trâm đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ. Ngày 27/9/1968, chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 22/6/1970, trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, Đặng Thùy Trâm bị địch phục kích và hy sinh khi chưa đầy 28 tuổi. Cuộc đời chị qua những dòng nhật ký là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ phấn đấu noi theo.

7 tháng 7 2021

Võ Thị Sáu hi sinh vì quốc chính đáng

7 tháng 7 2021

   .Những anh hùng liệt sĩ, họ đã không màng khó khăn, gian khổ, không màng cả tuổi xuân mà vững bước ra nơi xa trường. Để lại nỗi nhớ mong, trông chờ của mẹ già. Họ đã dũng cảm hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc,họ lấy máu tươi đổi lấy hòa bình. Không chịu khuất trước quân địch. Đó mới là người anh hùng mang dòng máu Việt Nam. Là những người xứng đáng được lịch sử ghi danh làm gương cho con cháu ngàn đời.

14 tháng 8 2021

Bài làm

Những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho tổ quốc là những người yêu nước chân chính. Bởi vì nhờ có họ mà chúng ta mới có hòa bình ngày hôm nay.

HT

14 tháng 8 2021

chúng em rất biết ơn những anh hùng liệt sỹ đã hi sinh tính mạng mình để cứu nước chúng ta khỏi giặc ngoại xâm.Em hứa sau này sẽ trở thành một người tốt để có ích cho đất nước chúng ta!

HT

Thank

7 tháng 10 2017

- Hai Bà Trưng

- Bà Triệu

- Lý Bí

- Triệu Quang Phục

- Mai Thúc Loan

- Phùng Hưng

- Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo

- Dương Đình Nghệ

- Ngô Quyền

28 tháng 4 2021

Hãy kể tên những vị anh hùng đã giương cao lá cờ đấu tranh chống Bắc thuộc, giành độc lập, trong số đó em thích nhất vị anh hùng dân tộc nào vì sao?



 

 

- Ngô quyền

- Nguyễn huệ

- Hồ Chí Minh

Phan Bội Châu

Hai Bà Trưng

Bà Triệu

Lý Thường Kiệt

Đinh Bộ Lĩnh

Lý Tự Trọng

Võ Thị Sáu

5 tháng 2 2018

Lê Lơi, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo

18 tháng 9 2020

1. Bác Hồ mất ngày 2 - 9 - 1969

2. Sang Pháp, Bác Hồ làm phụ bếp trên chiếc tàu biển Pháp Amiral Latouche-Tréville

3. Trước khi làm chỉ huy quân sự, Võ Nguyên Giáp làm thầy giáo dạy môn lịch sử

4. Lý Tự Trọng

5. Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn, Trần Can.

Chúc bạn học tốt!

18 tháng 9 2020

1.2 tháng 9, 1969

2.Sang Pháp, Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu Tàu Đô Đốc Latútsơ Tơrêviin

3.Trước khi làm chỉ huy quân sự, Võ Nguyên Giáp làm thầy giáo dạy môn Lịch Sử.

4.Vừ A Dính, người H'mông, liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Pháp, và là một nhân vật trong nhiều tài liệu, sách giáo khoa của Việt Nam.

5.Kim Đồng

31 tháng 3 2017

Những anh hùng đã phất cờ khởi nghĩa trong thòi Bắc thuộc là "
+Hai Bà Trưng : bất mãn về chính sưc áp bức và cai trị của nhà Hán hai bà đã phất cờ vào năm 40

+Bà Triệu : Không chịu nổi áp bức bóc lột nên bà khởi nghĩa năm 248

+ Lý Bí ( Lí Bôn) : bất mãn vì những chính sách cai trị bóc lột nặng nè và đặc biệt là chính sách đồng hoá dân tộc của nhà Lương ông đã phất cờ vào mùa xuân năm 542

+ Triệu Quang Phục : được Lí Bí trao quyền chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Lương : năm 550 ông đã dành được thắng lợi

+Mai Thúc Loan : bất mãn khi phải nộp nhiều sản vật quý nên ông đã hô hào dân phu phải cống nạp khởi nghĩa : khởi nghĩa những năm đầu tháng 10 thế kỉ VIII

+Phùng Hưng : bất mãn về chính sách cai trị nên ông cũng khởi nghĩa vào năm 776

+ Khúc Thừa Dụ :lợi dụng lúc nhà Đường đang suy yếu ông tụ họp nhân đân vào khởi nghãi lật đổ nhà Đường

+Dương Đình Nghệ : có viên tiết sứ đã chiếm một số Nam Hoa và liên kết với Nam Chiếu (Vân Nam, Trung Quốc) và thành lập nước Nam Hán và xang xâm lược nước ta

+Ngô Quyền : một viên tướng của ông Dương Đình Nghệ tên là Kiều Công Tiễn đã giết ông và xang cầu cứu Nam Hán . lời dụng thời cơ Nam Hán đã xang xâm chiếm nước ta . Ngô Quyền đã chiến thắng và chấm dứt gần 1 thiên niên kỉ bị nhà Hán thông trị

31 tháng 3 2017

Những vị anh hùng đã giương cao lá cờ đấu tranh giành lại độc lập : Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí (Lý Nam Đế), Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền.

14 tháng 7 2023

Một sự việc có thật liên quan đến những người bác sĩ anh hùng trong đại dịch Covid-19 là câu chuyện về bác sĩ Li Wenliang tại Trung Quốc.

Bác sĩ Li Wenliang là một nhân viên y tế tại Bệnh viện Trung tâm của thành phố Vũ Hán, nơi được cho là ổ dịch ban đầu của Covid-19. Vào ngày 30 tháng 12 năm 2019, khi dịch bệnh vẫn chưa được công bố rộng rãi, bác sĩ Li đã gửi một tin nhắn trong một nhóm chat y tế, cảnh báo về một loại vi khuẩn tương tự như SARS đang lây lan trong bệnh viện.

Tuy nhiên, tin nhắn của bác sĩ Li đã bị chính quyền địa phương coi là "lá đồng" và bị buộc phải rút lại lời cảnh báo. Sau đó, ông bị cảnh sát đánh thuốc và buộc phải viết đơn xin lỗi vì đã "gây sợ hãi cho xã hội"

. Nhưng bác sĩ Li không ngừng cố gắng và tiếp tục công việc chữa trị bệnh nhân. Ông đã bị nhiễm bệnh và sau đó qua đời vào ngày 7 tháng 2 năm 2020, trở thành một trong những nạn nhân đầu tiên của Covid-19

. Sau khi thông tin về cái chết của bác sĩ Li được công bố, dư luận quốc tế đã phản đối mạnh mẽ hành động của chính quyền Trung Quốc và coi ông là một anh hùng. Bác sĩ Li Wenliang đã trở thành biểu tượng của sự hy sinh và lòng dũng cảm của đội ngũ y bác sĩ trong cuộc chiến chống lại đại dịch Covid-19.

18 tháng 4 2016

hôm nay mình thi bài này nên mình biết:

đó là hai bà trưng,bà triệu,lý bí,mai thúc loan,phùng hưng,khúc thừa dụ,dương đình nghệ,ngô quyền

18 tháng 4 2016

* Những vị anh hùng đã giương cao lá cờ đấu tranh giành lại độc lập : Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí (Lý Nam Đế), Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền.

 

25 tháng 2 2020

https://olm.vn/hoi-dap/detail/99746131182.html

 Cậu tham khảo ở link này nha

Chúc bạn hok tốt

25 tháng 2 2020

Họ thật anh dũng và có lòng yêu nước nồng nàn, sẵn sàng hy sinh để tổ quốc độc lập, tự do mà chị Duyên mới là thanh niên mà đã như vậy nên chị là một tấm gương đáng học tập