Hãy viết một bài luận về di sản lịch sử của đất nước ta
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.



Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn.
Di sản văn hóa phi vật thể: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ, ca Huế, ca trù
Di tích lịch sử: Cố đô Hoa Lư, Đền Hùng, Đền Ngọc Sơn, Chiến khu Tân Trào.
Danh lam thắng cảnh: Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Sapa, Đảo Phú Quốc.
Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn.
Di sản văn hóa phi vật thể: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ, ca Huế, ca trù
Di tích lịch sử: Cố đô Hoa Lư, Đền Hùng, Đền Ngọc Sơn, Chiến khu Tân Trào.
Danh lam thắng cảnh: Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Sapa, Đảo Phú Quốc.

- Tên danh lam thắng cảnh: Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.
- Nằm ở huyện Bố Trạch và Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình.
- Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.
- Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 3 tháng 7 năm 2015.
- Được nhà nước xếp hạng vào vườn quốc gia, cần được bảo tồn.

Bến nhà Rồng:
Bến nhà Rồng ban đầu là một thương cảng lớn ở Sài Gòn, được xây dựng từ năm 1864 trên sông Sài Gòn. Gọi là Bến Nhà Rồng vì ở đó có một tòa nhà mang lối kiến trúc phương Tây nhưng trên đỉnh lại được gắn hai con rồng nên được người dân gọi là Nhà Rồng. Đây cũng là công trình đầu tiên do Pháp xây dựng từ sau khi chiếm được Sài Gòn. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã cho tu bổ, sửa sang lại mái ngôi nhà và thay hai con rồng cũ thành mới với tư thế quay đầu ra sau năm 1955. Từ đó đến nay, kiến trúc của nơi đây hầu như được giữ nguyên vẹn.

Tham khảo:
Bài 1:
Từ xưa đến nay, đất nước ta đã trải qua bao nhiêu thăng trầm mới có được hòa bình và nền độc lập như hôm nay. Đó là nhờ vào sự nỗ lực cống hiến cũng như tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước sâu sắc của mỗi thế hệ. Cho đến ngày nay, lòng yêu nước vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng cần được trân trọng và phát triển hơn nữa. Lòng yêu nước là tình yêu đối với quê hương, đất nước; nỗ lực cố gắng không ngừng để dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Lòng yêu nước là tình cảm cao cả, thiêng liêng của mỗi người dành cho quê hương đất nước. Đó là yêu sông, yêu núi, yêu làng, yêu xóm, yêu người dân sống trên mảnh đất hình chữ S. Tình cảm ấy đơn giản, gần gũi và nằm ngay trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của mỗi người. Biểu hiện của lòng yêu nước không phải là những thứ quá cao xa, nó nằm ngay ở ý thức và hành động của mỗi người. Trong thời kỳ kháng chiến, lòng yêu nước chính là đứng lên, cầm súng ra trận chiến đấu với kẻ thù. Mọi khó khăn, gian khổ đều không ngần ngại, xông lên phía trước dành lại độc lập tự do cho nhân dân. Lòng yêu nước lúc đó mạnh mẽ và quyết liệt. Đó là tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, tương thân tương ái, cùng nhau chống lại kẻ thù. Chiến tranh ác liệt nhưng như Bác Hồ từng nó thì “lòng yêu nước có thể nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước”. Lòng yêu nước lúc đó chính là cố gắng không ngừng nghỉ, cố gắng ngày và đêm để giữ lấy độc lập của đất nước. Quân thù hung ác nhưng ý chí chiến đấu của nhân dân càng phải quyết tâm. Tình yêu nước nồng nàn và tha thiết đó là vũ khí để chiến thắng kẻ thù. Trong thời bình, lòng yêu nước thể hiện ở việc chung ta xây dựng xã hội chủ nghĩa, mang lại cuộc sống no đủ cho nhân dân và sự vững bền cho đất nước. Tình yêu mà chúng ta dành cho làng quên yên bình, cho những dòng sông đổ nặng phù sa, cho bãi mía nương dâu. Nhà văn Ê ren bua từng nói “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương tạo nên lòng yêu Tổ quốc”. Những tình yêu tưởng chừng như bình dị như vậy nhưng lại tạo nên một tình yêu lớn lao và cao cả hơn.
Mô hình: Từ... đến (in đậm)
* Ở Việt Nam :
+ Di sản văn hóa
- Cố đô Huế
- Phố cổ Hội An
- Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam )
- Văn miếu Quôc Tử Giám (Hà Nội)
- Nhã nhạc cung đình Huế
- Chữ Nôm...
+ Di sản lịch sử
- Hang Pắc Bó (Cao Bằng)
- Gò Đống Đa (Hà Nội)
- Côn Đảo
- Bến Nhà Rồng (TP. HCM) Trường Quốc Học (Huế)
- Đền Hùng (Phú Thọ)
- Dốc Miếu (Quảng Trị)
- Địa đạo Củ Chi
- Địa Đạo Vĩnh Mốc (Quảng Trị)
*Danh lam thắng cảnh
- Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh)
- Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)
- Động Phong Nha (Quảng Bình)
- Mũi Né (Phú Yên)
- Rừng Quốc Gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế)
- Rừng Cúc Phương
- Chùa Thiên Mụ (Huế)
* Trên thế giới:
Di sản văn hóa trên thế giới
- Lễ hội Dano (Gangreug, tỉnh Ganguon Hàn Quổc)
- Nhà hát Opera Sydney (Australia)
- Khu pháo đài Đỏ tại Ấn Độ
- Thành phố cổ Coriu (Hi Lạp)
- Đảo núi lửa JeJu (Hàn Quốc)
- Mỏ bạc Iwami Ginzan, Nhật Bản
- Các pháo đài tại Nisa, Turkmenistan
- Thành phố khảo cổ Samarra, Iraq
- Kênh Rideau, Canada
- Công viên quôc gia Teide, Tây Ban Nha
- Các khu rừng sồi Primeval, Ukraine
- Khu bảo tồn Lope-Okanda, Gabin
- Phong cảnh văn hoá và thực vật Richteisveld (Nam Phi)
- Vùng đất nghệ thuật đá Twyfelfontein (Namibia)
- Các ngôi làng Diaolou ở Kaiping (Trung Quốc)
- Thành phố Xtalingrat (Nga)
- Cung điện mùa Đông (Nga)
- Thành phố pháo đài Carcassone (Pháp) - xây dựng thế kỉ XIII
- Động Vân Cương (TP Đại Đông tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc)
- Vạn lý trường Thành (Trung Quốc)
- Pháo đài Ba - Xti (Pháp)
- Trân Châu Cảng (Hawai)
- Thành phô" Damascus (Ả Rập)
- HangJenolan, Australia.
- Công viên Bakken cổ nhất (Klampenborg, ĐanMạch)
- Nhà thờ StBasil (Matxcơva, Nga)
- Thác nước Thiên thần cao nhất thế giới Kerepakupaimerús (vùng Sabana, bang Bolivar, Venezuela)
- Núi Fuji (Nhật Bản)
- Ngôi chùa cổ nhất Nhật Bản-horiju
- Thung lũng sông Loire-vương qucíc của những lâu đài (Pháp)
- Thác nước Niagara (nằm giữa ranh giới tự nhiên giữa Canada và Mĩ)
- Cung điện xưa nhất của nước Pháp-Versailles
- Khách sạn cổ nhất thế giới-Hoshi Ryokan (ở làng Awazu, Nhật Bản)
- Thành phố Agra (Ấn Độ)....

Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm Pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan(Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Bao gồm. Tên chỗ đó. Ở đâu. Đẹp hoặc cổ kính thế nào. Được công nhận là di sản thế giới không. Lịch sử đó có được nhà nước xếp hạng không ?
1. Tổng quan về di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Di tích lịch sử cách mạng là một bộ phận cấu thành hệ thống các di tích lịch sử - văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tín ngưỡng truyền thống (đình, đền, chùa, miếu…) ở chỗ đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúc có sẵn (nhà ở, đường phố,…), là những công trình được con người tạo nên phù hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật,…) đã gắn liền với những sự kiện cụ thể, nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích lưu niệm. Chính vì vậy loại hình di tích này rất đa dạng, phong phú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng thời cũng rất dễ bị lãng quên và dễ biến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết và theo thời gian. Bởi vậy nó vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được quan tâm một cách đặc biệt.
Cùng với các di tích lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử cách mạng - kháng chiến trên địa bàn thủ đô Hà Nội chiếm một số lượng khá lớn đã góp phần tô điểm, làm sáng lên truyền thống yêu chuộng hoà bình, tự do, ham học hỏi, trọng đạo lý của “Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người”.
Từ ngày 1 - 8 - 2008, theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, tỉnh Hà Tây chính thức sáp nhập với thành phố Hà Nội. Như vậy, địa bàn của Thủ đô Hà Nội đã mở rộng, số lượng các di tích lịch sử văn hóa nói chung, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến nói riêng cũng được tăng lên. Hầu như ở khắp các quận, huyện của thành phố đều có những di tích và địa danh gắn với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu trong kháng chiến chống Pháp, chống đế quốc Mỹ và bảo vệ hoà bình thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội… Sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội hiện là địa phương có số lượng di tích lớn nhất cả nước, với 5.175 di tích (khu vực Hà Nội cũ 1952 di tích, Hà Tây cũ 3.053 di tích, huyện Mê Linh và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn Hoà Bình 170 di tích). Trong đó: thống kê của Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội, tính đến tháng 7 năm 2005, tổng số di tích và địa danh cách mạng - kháng chiến là 265, trong đó có 38 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và cấp thành phố.[1] Cũng theo số lượng thống kê năm 2005 của Ban quản lý di tích tỉnh Hà Tây: trên địa bàn tỉnh có 38 di tích lịch sử cách mạng - lưu niệm danh nhân, phân bố ở 13/14 huyện thị của tỉnh[2].
Từ thực tế hiện nay, các di tích lịch sử cách mạng - kháng chiến trên địa bàn Hà Nội có thể chia thành các nhóm như sau:
- Các di tích liên quan đến các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Tiêu biểu như: Mộ các chiến sĩ hy sinh trong vụ Hà Thành đầu độc năm 1911 ở Bưởi (phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy), Ngôi nhà số 10 Hàng Đào (Đông Kinh nghĩa thục), Khách sạn Hà Nội (Việt Nam quang phục hội)…
- Các di tích liên quan đến việc thành lập các tổ chức cộng sản từ năm 1926 đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Tiêu biểu như: Ngôi nhà 5D Hàm Long (nơi thành lập Chi bộ CS đầu tiên ở HN 3/1929), Ngôi nhà 90 Thợ Nhuộm (nơi đồng chí Trần Phú khởi thảo Luận cương cách mạng tư sản dân quyền, 10/1930), Ngân hàng quốc gia (nơi đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng bí thư của Đảng viết cuốn “Tự chỉ trích”)…
- Các di tích liên quan đến thời kỳ cách mạng tháng 8 năm 1945: Chùa Hà, Nhà bà Hai Nhã (Cầu Giấy), Nhà cụ An (Tây Hồ), Quảng trường Nhà hát lớn, Quảng trường 1- 5, Bắc Bộ phủ, Trại bảo an binh, Nhà số 101 Trần Hưng Đạo, Nhà số 48 Hàng Ngang (Hoàn Kiếm), Khu di tích Phủ Chủ tịch (Ba Đình)…
- Các di tích thuộc thời kỳ toàn quốc kháng chiến và cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954): Di tích lưu niệm Vạn Phúc - Hà Đông (nơi Chủ tịch Hồ Chí minh viết bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến), Nhà máy điện Yên Phụ, trại giam Nhà Tiền (Ba Đình), Viện Pasteur, Pháo đài Xuân Canh, địa đạo Nam Hồng (Đông Anh)…
- Các di tích thuộc thời kỳ chống Mỹ cứu nước: Hồ Hữu Tiệp - Ngọc Hà nơi máy bay B52 Mỹ bị bắn rơi, Cầu Long Biên, Tượng đài tưởng niệm những người dân Khâm Thiên bị bom Mỹ giết hại, Hầm chỉ huy của Thành uỷ ở Võng Thị - Tây Hồ…
Qua khảo sát thực trạng của các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn thủ đô Hà Nội chúng ta thấy:
- Hà Nội là nơi có số lượng di tích và địa danh cách mạng có số lượng nhiều, phong phú đa dạng về loại hình, nằm ở nhiều địa điểm khác nhau.
- Có nhiều di tích quan trọng gắn với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các di tích này có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt như: Ngôi nhà số 5D Hàm Long - nơi chi bộ cộng sản đầu tiên của Việt Nam ra đời, ngôi nhà 90 Thợ Nhuộm nơi đồng chí Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng viết bản Luận cương cách mạng tư sản dân quyền, Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang nơi Bác Hồ viết bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam DCCH… Đây là những di tích mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
- Có nhiều di tích tố cáo tội ác dã man của đế quốc xâm lược: nhà tù Hoả Lò, nhà tù Thanh Liệt, mộ những người bị oanh tạc và chết đói năm 1945, tượng đài tưởng niệm Khâm Thiên… Và cũng có nhiều di tích phản ánh ý chí quật cường của người dân Thủ đô quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược, quyết giành lại độc lập dân tộc, thể hiện khát vọng tự do và hoà bình như: Khu chợ Đồng Xuân, hồ Hữu Tiệp, trận địa tên lửa Chèm…
2. Giá trị của các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn thủ đô là những di tích đã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân thủ đô Hà Nội nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Mỗi di tích ấy đều mang trong nó những giá trị khác nhau như giá trị lịch sử, văn hóa, lưu niệm, giáo dục truyền thống… mà ngày nay chúng ta cần phải hiểu và phát huy nhằm giáo dục, định hướng cho thế hệ trẻ, những chủ nhân của đất nước trong tương lai.
Di tích lịch sử cách mạng chứa đựng trong mình giá trị lịch sử to lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam trải mấy nghìn năm hào hùng, anh dũng, đã bao phen đánh thắng nhiều kẻ thù lớn xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc. Lịch sử cách mạng nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một chặng trong bản anh hùng ca đó. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã làm nên những chiến công rạng rỡ lịch sử. Suốt chặng đường lịch sử ấy, biết bao địa điểm, căn nhà, góc phố, hầm hào, thậm chí cả cây đa, bến nước, sân đình - những hình ảnh truyền thống của quê hương đã chứng kiến và là những địa điểm của cuộc đấu tranh giành lại độc lập. Các địa điểm ấy còn là những bằng chứng vật chất phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày nay, những địa điểm, căn nhà, góc phố ấy đã trở thành những địa danh - di tích lịch sử cách mạng. Thế hệ ngày nay khi tìm hiểu về những trang sử hào hùng của cha ông thì ngoài qua những bài học trên lớp, đọc sách, tra cứu thông tin… còn đến với những di tích, những hiện vật lịch sử cách mạng để hiểu lịch sử và các phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hơn thế nữa đến với các di tích lịch sử cách mạng, mỗi người đều có thể tự tìm hiểu, đánh giá những sự kiện lịch sử bằng cảm nhận trực quan của mình, mỗi người sẽ có những suy nghĩ, tâm tư tình cảm riêng về một giai đoạn lịch sử hào hùng, về những sự kiện hoặc về một con người, một danh nhân cách mạng cụ thể. Những di tích, những hiện vật ấy là những bằng chứng trung thực nhất, sống động nhất để các nhà sử học và khách tham quan có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học tập và làm cơ sở để chứng minh cho nhiều vấn đề của lịch sử. Thông qua hệ thống di tích lịch sử cách mạng của thủ đô Hà Nội chúng ta có thể tìm hiểu được các vấn đề của lịch sử Việt Nam, cũng như lịch sử thủ đô giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho đến những năm 1975 - khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã toàn thắng, thống nhất đất nước.
Giá trị giáo dục truyền thống:thông qua các di tích lịch sử là một cách thức để chúng ta có thể giáo dục truyền thống cho nhiều đối tượng nhất là cho thế hệ trẻ ngày hôm nay nhận được, tiếp thu được truyền thống đấu tranh cách mạng, tinh thần yêu nước của các thế hệ đi trước, từ đó nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước hôm nay.
Gắn với những chiến công của các thế hệ đi trước, mỗi di tích lịch sử cách mạng đều góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức được một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Những di tích lịch sử cách mạng không chỉ giúp thế hệ trẻ ngày nay có nhận thức đúng đắn về lịch sử mà còn góp phần làm tăng thêm lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, từ đó tiếp tục phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đến với những di tích lịch sử cách mạng mỗi người đều mang lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ đi trước - những người đã anh dũng, kiên cường chiến đấu hi sinh để giữ gìn độc lập của đất nước. Chính điều đó tạo nên tính chất lâu bền cho mỗi di tích và lan truyền rộng rãi cho nhiều thế hệ sau.
Trong mỗi di tích lịch sử cách mạng đều chứa đựng giá trị lưu niệm. Những di tích này phản ánh rất cụ thể về từng sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra hay cuộc đời và hoạt động của các danh nhân mà đặc biệt ở đây các danh nhân đó là những danh nhân cách mạng lỗi lạc như Chủ tịch Hồ Minh, đồng chí Trần Phú, đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ... Ví dụ như di tích nhà số 90 Thợ Nhuộm là nơi đồng chí Trần Phú viết dự thảo Luận cương Chính trị năm 1930. Đó là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cu...