K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 4 2016
Truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc bao giờ cũng được phát huy cùng sự trường tồn của dân tộc ấy. Qua mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc Việt Nam đã làm rạng rỡ thêm những bài học quý giá của quá khứ, biến chúng thành những nhân tố góp phần chiến thắng cho cuộc đấu tranh hiện tại và mở ra triển vọng tươi sáng cho tương lai. Các anh hùng dân tộc của chúng ta sở dĩ làm nên nghiệp lớn, vì không bao giờ họ tách mình khỏi truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà ngược lại, họ luôn đại diện cho những nguyện vọng cao cả nhất, bức thiết nhất của nhân dân trong thời đại của mình. Là một anh hùng dân tộc vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế tục xứng đáng nhất sự nghiệp và công đức của những bậc tiền bối kiệt xuất, đã thu góp tinh hoa tư tưởng mà dân tộc ta hun đúc nên từ máu lửa của những cuộc chiến đấu sinh tồn và phát triển. Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành”. Người chưa bao giờ lấy sự nghiệp văn chương làm cứu cánh, cũng như Người chưa bao giờ chủ định trở thành một nhà sử học. Nhưng qua những bài báo, những lời phát biểu, qua những di sản tinh thần Người để lại, chúng ta thấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm đặc biệt đến lịch sử nước nhà và việc giáo dục lịch sử truyền thống cho thế hệ sau.
1. Lịch sử là động lực tích cực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước ở nước ngoài, ngày 28/1/1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Làng Pắc Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, đã vinh dự thay mặt nhân dân cả nước đón Người. Tại đây, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ cách mạng, trực tiếp bắt tay thực hiện chương trình thí điểm của Việt Minh, tổ chức các Hội Cứu quốc. Đặc biệt, tại Pắc Bó, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) - Hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam.
Ngày 6/6/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết, nhất tề đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật. Người còn cho xuất bản tờ báo “Việt Nam độc lập” (số đầu tiên ra ngày 1/8/1941) và viết bài cho cơ quan ngôn luận Việt Minh bí mật đóng ở căn cứ rừng núi Cao Bằng. Mục đích của Người là giúp cán bộ Việt Minh có thêm nguồn tư liệu để truyền bá, vận động quần chúng tích cực tham gia vào đoàn thể cứu quốc, vào đội bán vũ trang chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng khi thời cơ đến. Để phục vụ mục tiêu cao cả này, Người còn viết nhiều bài thơ, ca, hò, vè, gắn mỗi bài với một chủ đề riêng cho từng giới: nông dân, lão thành, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi, chức sắc tôn giáo, binh lính... (ví dụ: các tác phẩm Dân cày, Phụ nữ, Trẻ con, Ca binh lính, Ca đội tự vệ, Lịch sử nước ta, Ca Sợi chỉ, Hòn đá, Con cáo và Tổ ong, Bài ca du kích…). Đây là những tác phẩm tuyên truyền cho nhân dân nên Người viết rất ngắn gọn với câu từ dễ hiểu, đại chúng, nội dung phong phú, gần gũi, súc tích, hàm chứa ý nghĩa tập hợp, đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc.
Nằm trong số các tác phẩm tuyên truyền, cổ động đó, “Lịch sử nước ta” là một bài diễn ca lịch sử được diễn đạt bằng thể thơ lục bát, gồm 208 câu, xuất bản lần đầu vào tháng 2/1942, do Việt Minh truyên truyền bộ ấn hành. Nội dung tác phẩm được chia ra làm 3 giai đoạn: Giai đoạn từ nguồn gốc đến năm 1858; Giai đoạn từ lúc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta đến 1919; Giai đoạn từ năm 1919 đến 1941 (Việt Minh ra đời).
Trước năm 1941, những bộ thông sử của nước ta gồm có: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu đời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đời Lê, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn đời hậu Lê, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú đời Nguyễn, Khâm định việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn viết,... Những vị tiền nhân sử học biên soạn bằng chữ Hán và chữ Việt, theo thể văn chính luận, ghi chép các biến cố về đời sống, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nước nhà. Tuy phong cách viết khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở tình yêu tha thiết với quốc sử. Song, do bị hạn chế cách nhìn của học giả dưới thời phong kiến, Pháp thuộc nên dòng lịch sử theo dòng tư tưởng đương đại, tung hô “Vạn tuế” và ca ngợi “Những công việc của chính phủ bảo hộ”.
Được viết bởi Nguyễn Ái Quốc - người cộng sản Việt Nam đầu tiên, “Lịch sử nước ta” là tác phẩm có giá trị đặc biệt đứng về phương diện sử học bởi đây là lần đầu tiên lịch sử Việt Nam được đánh giá theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tác giả Nguyễn Ái Quốc đã nêu lên những quan điểm mới có tính nguyên tắc chỉ đạo làm phong phú thêm kho tàng tư tưởng lý luận của Đảng. Người đã khái quát và coi lịch sử là một nguồn tư liệu vô giá, là động lực góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ngay từ những câu đầu tiên của bài diễn ca, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vị trí quan trọng của lịch sử dân tộc: Chỉ có thông qua lịch sử và chỉ có nhờ vào kiến thức hiểu biết về lịch sử mà mỗi người dân Việt Nam mới hiểu được gốc tích, cội nguồn của dân tộc mình, đất nước mình. Người viết: “Dân ta phải biết sử ta - Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam - Kể năm hơn bốn ngàn năm - Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà - Hồng Bàng là tổ nước ta”.
Lịch sử không chỉ truyền dạy cho chúng ta nguồn gốc con Rồng, cháu Tiên mà còn tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta, gợi nhắc lại cho chúng ta quá khứ vẻ vang của dân tộc. Trân trọng lịch sử, tự hào về truyền thống giữ nước của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã dùng những từ ngữ phổ thông dân dã, dễ hiểu, dễ nhớ, Ca ngợi, Tri Ân, Vinh danh các triều đại vua chúa, các đấng anh hùng có tài trị quốc an dân, phát triển đất nước, diệt giặc ngoài thù trong, mở mang bờ cõi như: Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Nam Hán để lại “tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta”, Bà Triệu khởi nghĩa chống quân Ngô, Lý Bôn đánh Tàu “lập nên triều Lý sáu mươi năm liền”, Mai Thúc Loan chống nhà Đường, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, “ra tài kiến thiết kinh dinh”, Lê Đại Hành “đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành”; “đời Trần văn giỏi võ nhiều” đã 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược. Khi quân Minh đô hộ nước ta, Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã “Đánh 20 vạn quân Minh tan tành, Mười năm sự nghiệp hoàn thành…”. Đặc biệt, trong 208 câu diễn ca, Nguyễn Ái Quốc đã tâm huyết viết về thời đại Quang Trung - Nguyễn Huệ 40 câu, đủ biết Người đã dành ý tưởng của mình cho thời kỳ oai hùng này: “Dân gian có kẻ anh hùng - Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Quy Nhơn,…- Nguyễn Huệ là kẻ phi thường, mấy lần đánh đuổi quân Xiêm, giặc Tàu”.
Bằng việc điểm lại những cuộc đấu tranh, khởi nghĩa chống quân xâm lược với những tên tuổi lớn như trên, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, thời nào đất nước ta cũng xuất hiện những nhân tài có công trị nước yên dân, xây dựng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Đặc biệt là những khi đất nước bị xâm lăng, từ những người nông dân áo vải bình dị đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt có lòng yêu nước nồng nàn, có tài cầm quân thao lược giữ yên bờ cõi, trở thành tấm gương sáng, để lại tiếng thơm cho muôn đời. Những tấm gương anh hùng, nghĩa sĩ của dân tộc ta nhiều không tả xiết, thuộc đủ mọi giới, mọi thành phần: “Thiếu niên ta rất vẻ vang”, “Phụ nữ ta chẳng tầm thường”, “Tuổi già phỉ chí công danh – Mà lòng yêu nước trung thành không phai”…
Đồng thời Nguyễn Ái Quốc cũng nghiêm khắc phê phán một số triều đại thoái vị cướp ngôi, tạo nên cảnh chia cắt “Lê Nam-Mạc Bắc”; “Trịnh Bắc-Nguyễn Nam”; “Nam Bắc phân tranh”; “Vua Lê chúa Trịnh”; Đông đô-Tây đô, cõng rắn, cắn gà nhà, rước voi giày mả tổ, gây nên thảm cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt, kéo dài hàng thế kỷ, làm chậm quá trình phát triển của xã tắc sơn hà khiến một thời gian dài Đại Việt-Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới. Đó là những “sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng”, là những bài học cho hậu thế. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa nêu bật vai trò quan trọng của lịch sử: Nhờ có lịch sử mà chúng ta có thể tự hào về truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của cha ông. Chỉ có lịch sử mới hun đúc được tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc và ý chí độc lập tự cường dân tộc. Lịch sử dạy cho chúng ta phân biệt bạn – thù, biết đúng – sai, phải – trái; biết mình biết người để có thể tận dụng được thời cơ chính xác, tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Từ trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được tư tưởng “dựa vào dân để có sức mạnh”. Người khẳng định anh hùng làm nên sự nghiệp cao cả vì biết dựa vào dân. Người đánh giá cao vai trò của cá nhân song song khẳng định vai trò quyết định của nhân dân. Người nhấn mạnh khi nào đoàn kết được lực lượng yêu nước chung quanh tướng lĩnh trung quân ái quốc, lấy quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy thì sẽ đánh đổ giặc ngoại xâm và tay sai của chúng: Đó là sự kiện năm 40-43, Trưng Vương khởi binh đánh quân Mã Viện chiếm đất Giao Chỉ: “Quân Tàu nhiều kẻ tham lam - Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?- Hai Bà Trưng có đại tài - Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian - Ra tay khôi phục giang san - Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta”; Sự kiện năm 939, Tiền Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa thành đã giải phóng nước nhà khỏi ách Bắc thuộc với ý chí cùng quân dân dựng nghiệp lâu dài:“Ngô Quyền quê ở Đường Lâm - Cứu dân ra khỏi cát lầmngàn năm”; Sự kiện năm 1427, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, “mặc dầu tướng ít binh đơn” nhưng “Vì dân hăng hái kết đoàn - Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng”....
24 tháng 3 2016

1. Tổng quan về di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Di tích lịch sử cách mạng là một bộ phận cấu thành hệ thống các di tích lịch sử - văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tín ngưỡng truyền thống (đình, đền, chùa, miếu…) ở chỗ đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúc có sẵn (nhà ở, đường phố,…), là những công trình được con người tạo nên phù hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật,…) đã gắn liền với những sự kiện cụ thể, nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích lưu niệm. Chính vì vậy loại hình di tích này rất đa dạng, phong phú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng thời cũng rất dễ bị lãng quên và dễ biến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết và theo thời gian. Bởi vậy nó vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được quan tâm một cách đặc biệt.
Cùng với các di tích lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử cách mạng - kháng chiến trên địa bàn thủ đô Hà Nội chiếm một số lượng khá lớn đã góp phần tô điểm, làm sáng lên truyền thống yêu chuộng hoà bình, tự do, ham học hỏi, trọng đạo lý của “Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người”.
Từ ngày 1 - 8 - 2008, theo quyết định của Thủ tướng chính phủ, tỉnh Hà Tây chính thức sáp nhập với thành phố Hà Nội. Như vậy, địa bàn của Thủ đô Hà Nội đã mở rộng, số lượng các di tích lịch sử văn hóa nói chung, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến nói riêng cũng được tăng lên. Hầu như ở  khắp các quận, huyện của thành phố đều có những di tích và địa danh gắn với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu trong kháng chiến chống Pháp, chống đế quốc Mỹ và bảo vệ hoà bình thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội… Sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội hiện là địa phương có số lượng di tích lớn nhất cả nước, với 5.175 di tích (khu vực Hà Nội cũ 1952 di tích, Hà Tây cũ 3.053 di tích, huyện Mê Linh và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn Hoà Bình 170 di tích). Trong đó: thống kê của Ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội, tính đến tháng 7 năm 2005, tổng số di tích và địa danh cách mạng - kháng chiến là 265, trong đó có 38 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và cấp thành phố.[1] Cũng theo số lượng thống kê năm 2005 của Ban quản lý di tích tỉnh Hà Tây: trên địa bàn tỉnh có 38 di tích lịch sử cách mạng - lưu niệm danh nhân, phân bố ở 13/14 huyện thị của tỉnh[2].
Từ thực tế hiện nay, các di tích lịch sử cách mạng - kháng chiến trên địa bàn Hà Nội có thể chia thành các nhóm như sau:
Các di tích liên quan đến các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Tiêu biểu như: Mộ các chiến sĩ hy sinh trong vụ Hà Thành đầu độc năm 1911 ở Bưởi (phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy), Ngôi nhà số 10 Hàng Đào (Đông Kinh nghĩa thục), Khách sạn Hà Nội (Việt Nam quang phục hội)…
- Các di tích liên quan đến việc thành lập các tổ chức cộng sản từ năm 1926 đến trước cách mạng tháng 8 năm 1945. Tiêu biểu như: Ngôi nhà 5D Hàm Long (nơi thành lập Chi bộ CS đầu tiên ở HN 3/1929), Ngôi nhà 90 Thợ Nhuộm (nơi đồng chí Trần Phú khởi thảo Luận cương cách mạng tư sản dân quyền, 10/1930), Ngân hàng quốc gia (nơi đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng bí thư của Đảng viết cuốn “Tự chỉ trích”)…
Các di tích liên quan đến thời kỳ cách mạng tháng 8 năm 1945: Chùa Hà, Nhà bà Hai Nhã (Cầu Giấy), Nhà cụ An (Tây Hồ), Quảng trường Nhà hát lớn, Quảng trường 1- 5, Bắc Bộ phủ, Trại bảo an binh, Nhà số 101 Trần Hưng Đạo, Nhà số 48 Hàng Ngang (Hoàn Kiếm), Khu di tích Phủ Chủ tịch (Ba Đình)…
Các di tích thuộc thời kỳ toàn quốc kháng chiến và cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954):  Di tích lưu niệm Vạn Phúc - Hà Đông (nơi Chủ tịch Hồ Chí minh viết bản Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến), Nhà máy điện Yên Phụ, trại giam Nhà Tiền (Ba Đình), Viện Pasteur, Pháo đài Xuân Canh, địa đạo Nam Hồng (Đông Anh)…
Các di tích thuộc thời kỳ chống Mỹ cứu nước: Hồ Hữu Tiệp - Ngọc Hà nơi máy bay B52 Mỹ bị bắn rơi, Cầu Long Biên, Tượng đài tưởng niệm những người dân Khâm Thiên bị bom Mỹ giết hại, Hầm chỉ huy của Thành uỷ ở Võng Thị - Tây Hồ…
Qua khảo sát thực trạng của các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn thủ đô Hà Nội chúng ta thấy:
- Hà Nội là nơi có số lượng di tích và địa danh cách mạng có số lượng nhiều, phong phú đa dạng về loại hình, nằm ở nhiều địa điểm khác nhau.
- Có nhiều di tích quan trọng gắn với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các di tích này có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt như: Ngôi nhà số 5D Hàm Long - nơi chi bộ cộng sản đầu tiên của Việt Nam ra đời, ngôi nhà 90 Thợ Nhuộm nơi đồng chí Trần Phú - Tổng bí thư đầu tiên của Đảng viết bản Luận cương cách mạng tư sản dân quyền, Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang nơi Bác Hồ viết bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam DCCH… Đây là những di tích mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế.
- Có nhiều di tích tố cáo tội ác dã man của đế quốc xâm lược: nhà tù Hoả Lò, nhà tù Thanh Liệt, mộ những người bị oanh tạc và chết đói năm 1945, tượng đài tưởng niệm Khâm Thiên… Và cũng có nhiều di tích phản ánh ý chí quật cường của người dân Thủ đô quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược, quyết giành lại độc lập dân tộc, thể hiện khát vọng tự do và hoà bình như: Khu chợ Đồng Xuân, hồ Hữu Tiệp, trận địa tên lửa Chèm…
2. Giá trị của các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn thủ đô là những di tích đã gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân thủ đô Hà Nội nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Mỗi di tích ấy đều mang trong nó những giá trị khác nhau như giá trị lịch sử, văn hóa, lưu niệm, giáo dục truyền thống… mà ngày nay chúng ta cần phải hiểu và phát huy nhằm giáo dục, định hướng cho thế hệ trẻ, những chủ nhân của đất nước trong tương lai.
Di tích lịch sử cách mạng chứa đựng trong mình giá trị lịch sử to lớn. Lịch sử dân tộc Việt Nam trải mấy nghìn năm hào hùng, anh dũng, đã bao phen đánh thắng nhiều kẻ thù lớn xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc. Lịch sử cách mạng nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là một chặng trong bản anh hùng ca đó. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã làm nên những chiến công rạng rỡ lịch sử. Suốt chặng đường lịch sử ấy, biết bao địa điểm, căn nhà, góc phố, hầm hào, thậm chí cả cây đa, bến nước, sân đình - những hình ảnh truyền thống của quê hương đã chứng kiến và là những địa điểm của cuộc đấu tranh giành lại độc lập. Các địa điểm ấy còn là những bằng chứng vật chất phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng. Đến ngày nay, những địa điểm, căn nhà, góc phố ấy đã trở thành những địa danh - di tích lịch sử cách mạng. Thế hệ ngày nay khi tìm hiểu về những trang sử hào hùng của cha ông thì ngoài qua những bài học trên lớp, đọc sách, tra cứu thông tin… còn đến với những di tích, những hiện vật lịch sử cách mạng để hiểu lịch sử và các phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hơn thế nữa đến với các di tích lịch sử cách mạng, mỗi người đều có thể tự tìm hiểu, đánh giá những sự kiện lịch sử bằng cảm nhận trực quan của mình, mỗi người sẽ có những suy nghĩ, tâm tư tình cảm riêng về một giai đoạn lịch sử hào hùng, về những sự kiện hoặc về một con người, một danh nhân cách mạng cụ thể. Những di tích, những hiện vật ấy là những bằng chứng trung thực nhất, sống động nhất để các nhà sử học và khách tham quan có thể nghiên cứu, tìm hiểu, học tập và làm cơ sở để chứng minh cho nhiều vấn đề của lịch sử. Thông qua hệ thống di tích lịch sử cách mạng của thủ đô Hà Nội chúng ta có thể tìm hiểu được các vấn đề của lịch sử Việt Nam, cũng như lịch sử thủ đô giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho đến những năm 1975 - khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã toàn thắng, thống nhất đất nước.
Giá trị giáo dục truyền thống:thông qua các di tích lịch sử là một cách thức để chúng ta có thể giáo dục truyền thống cho nhiều đối tượng nhất là cho thế hệ trẻ ngày hôm nay nhận được, tiếp thu được truyền thống đấu tranh cách mạng, tinh thần yêu nước của các thế hệ đi trước, từ đó nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước hôm nay.
Gắn với những chiến công của các thế hệ đi trước, mỗi di tích lịch sử cách mạng đều góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức được một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Những di tích lịch sử cách mạng không chỉ giúp thế hệ trẻ ngày nay có nhận thức đúng đắn về lịch sử mà còn góp phần làm tăng thêm lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, từ đó tiếp tục phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đến với những di tích lịch sử cách mạng mỗi người đều mang lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ đi trước - những người đã anh dũng, kiên cường chiến đấu hi sinh để giữ gìn độc lập của đất nước. Chính điều đó tạo nên tính chất lâu bền cho mỗi di tích và lan truyền rộng rãi cho nhiều thế hệ sau.
Trong mỗi di tích lịch sử cách mạng đều chứa đựng giá trị lưu niệm. Những di tích này phản ánh rất cụ thể về từng sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra hay cuộc đời và hoạt động của các danh nhân mà đặc biệt ở đây các danh nhân đó là những danh nhân cách mạng lỗi lạc như Chủ tịch Hồ Minh, đồng chí Trần Phú, đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ... Ví dụ như di tích nhà số 90 Thợ Nhuộm là nơi đồng chí Trần Phú viết dự thảo Luận cương Chính trị năm 1930. Đó là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong cu...

22 tháng 3 2019

- Tên danh lam thắng cảnh: Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng.

- Nằm ở huyện Bố Trạch và Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình.

- Đặc trưng của vườn quốc gia này là các kiến tạo đá vôi, 300 hang động, các sông ngầm và hệ động thực vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và Sách đỏ thế giới. Các hang động ở đây có tổng chiều dài khoảng hơn 80 km nhưng các nhà thám hiểm hang động Anh và Việt Nam mới chỉ thám hiểm 20 km, trong đó 17 km ở khu vực Phong Nha và 3 km ở khu vực Kẻ Bàng.

- Được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 3 tháng 7 năm 2015.

- Được nhà nước xếp hạng vào vườn quốc gia, cần được bảo tồn.

 

25 tháng 5 2021

Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn.

Di sản văn hóa phi vật thể: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ, ca Huế, ca trù

Di tích lịch sử: Cố đô Hoa Lư, Đền Hùng, Đền Ngọc Sơn, Chiến khu Tân Trào.

Danh lam thắng cảnh: Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Sapa, Đảo Phú Quốc.

Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn.

Di sản văn hóa phi vật thể: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ, ca Huế, ca trù

Di tích lịch sử: Cố đô Hoa Lư, Đền Hùng, Đền Ngọc Sơn, Chiến khu Tân Trào.

Danh lam thắng cảnh: Vịnh Hạ Long, Hồ Hoàn Kiếm, Sapa, Đảo Phú Quốc.

9 tháng 3 2018

* Ở Việt Nam :

+ Di sản văn hóa

     - Cố đô Huế

     - Phố cổ Hội An

     - Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam )

     - Văn miếu Quôc Tử Giám (Hà Nội)

     - Nhã nhạc cung đình Huế

     - Chữ Nôm...

+ Di sản lịch sử

     - Hang Pắc Bó (Cao Bằng)

     - Gò Đống Đa (Hà Nội)

     - Côn Đảo

     - Bến Nhà Rồng (TP. HCM) Trường Quốc Học (Huế)

     - Đền Hùng (Phú Thọ)

     - Dốc Miếu (Quảng Trị)

QUẢNG CÁO

     - Địa đạo Củ Chi

     - Địa Đạo Vĩnh Mốc (Quảng Trị)

*Danh lam thắng cảnh

     - Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh)

     - Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng)

     - Động Phong Nha (Quảng Bình)

     - Mũi Né (Phú Yên)

     - Rừng Quốc Gia Bạch Mã (Thừa Thiên Huế)

     - Rừng Cúc Phương

     - Chùa Thiên Mụ (Huế)

* Trên thế giới:

Di sản văn hóa trên thế giới

     - Lễ hội Dano (Gangreug, tỉnh Ganguon Hàn Quổc)

     - Nhà hát Opera Sydney (Australia)

     - Khu pháo đài Đỏ tại Ấn Độ

     - Thành phố cổ Coriu (Hi Lạp)

     - Đảo núi lửa JeJu (Hàn Quốc)

     - Mỏ bạc Iwami Ginzan, Nhật Bản

     - Các pháo đài tại Nisa, Turkmenistan

     - Thành phố khảo cổ Samarra, Iraq

     - Kênh Rideau, Canada

     - Công viên quôc gia Teide, Tây Ban Nha

     - Các khu rừng sồi Primeval, Ukraine

     - Khu bảo tồn Lope-Okanda, Gabin

     - Phong cảnh văn hoá và thực vật Richteisveld (Nam Phi)

     - Vùng đất nghệ thuật đá Twyfelfontein (Namibia)

     - Các ngôi làng Diaolou ở Kaiping (Trung Quốc)

     - Thành phố Xtalingrat (Nga)

     - Cung điện mùa Đông (Nga)

     - Thành phố pháo đài Carcassone (Pháp) - xây dựng thế kỉ XIII

     - Động Vân Cương (TP Đại Đông tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc)

     - Vạn lý trường Thành (Trung Quốc)

     - Pháo đài Ba - Xti (Pháp)

     - Trân Châu Cảng (Hawai)

     - Thành phô" Damascus (Ả Rập)

     - HangJenolan, Australia.

     - Công viên Bakken cổ nhất (Klampenborg, ĐanMạch)

     - Nhà thờ StBasil (Matxcơva, Nga)

     - Thác nước Thiên thần cao nhất thế giới Kerepakupaimerús (vùng Sabana, bang Bolivar, Venezuela)

     - Núi Fuji (Nhật Bản)

     - Ngôi chùa cổ nhất Nhật Bản-horiju

     - Thung lũng sông Loire-vương qucíc của những lâu đài (Pháp)

     - Thác nước Niagara (nằm giữa ranh giới tự nhiên giữa Canada và Mĩ)

     - Cung điện xưa nhất của nước Pháp-Versailles

     - Khách sạn cổ nhất thế giới-Hoshi Ryokan (ở làng Awazu, Nhật Bản)

     - Thành phố Agra (Ấn Độ)....

13 tháng 2 2019

Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm Pa hay hoàng thân, quốc thích. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.

Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan(Myanma), Angkor Wat (Campuchia) và Ayutthaya (Thái Lan). Từ năm1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.

13 tháng 2 2019

Bao gồm. Tên chỗ đó. Ở đâu. Đẹp hoặc cổ kính thế nào. Được công nhận là di sản thế giới không. Lịch sử đó có được nhà nước xếp hạng không ? 

6 tháng 5 2017

Đáp án: A

28 tháng 5 2017

Đáp án A