K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

14 tháng 11 2016

nhà Trần duy trì qua 12 vị vua

nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tôn thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền.

Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long - kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều đại nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các mặt kinh tế, xã hội,giáo dục và nghệ thuật cũng hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện Tam giáo đồng nguyên, sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo - Nho giáo - Đạo giáo. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều,...là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa.

Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287.

21 tháng 11 2016

1 .nói về thành Đại La ( Thăng Long thời Lý)

2nói về thời Trần (như bạn anh thư)

 

15 tháng 11 2021

Tham khảo!

Đinh Bộ Lĩnh là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.[1] Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc[2] rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam[3][4][5], vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

8 tháng 11 2016

Nhà Trần trị vì đất nước ta được 175 năm (1225 - 1400), qua 12 đời vua, bao gồm: - Trần Thái Tông (1225-1258) - Trần Thánh Tông (1258-1278) - Trần Nhân Tông (1279-1293) - Trần Anh Tông (1293-1314) - Trần Minh Tông (1314-1329) - Trần Hiển Tông (1329-1341) - Trần Dụ Tông (1341-1369) - Trần Nghệ Tông (1370-1372) - Trần Duệ Tông (1372-1377) - Trần Phế Ðế (1377-1388) - Trần Thuận Tông (1388-1398) - Trần Thiếu Ðế (1398-1400)
 

♦ Trần Thái Tông(1225-1258):

Niên hiệu:

- Kiến Trung (1225-1231);
- Thiên ứng chính Bình (1232-1250);
- Nguyên Phong (1251-1258).

Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần (1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng.
Nhờ Trần Thủ Ðộ thu xếp. Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh (1225), lên làm vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Bởi vậy Trần Thủ Ðộ bắt vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Trần Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Ðộ đem quần thần tới đón về. Trần Thái Tông từ chối, nói rằng: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển. Thủ Ðộ ngoảnh lại nói với các quan: Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.

Nói đoạn truyền lệnh xây dựng cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Trần Thái Tông về triều. Trần Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.

Ðược ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Ðộ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Ðộ tha cho Trần Liễu.

Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Ðinh Tỵ (1257), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Ðộ, Trần Quốc Tuấn (Tức Hưng Ðạo Vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Ðại Việt quyết chống giặc. Bản thân Trần Thái Tông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha tên đạn.

Tháng 12 năm Ðinh Tỵ (21/1/1258) vua Thái Tông cùng Thái tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần phá tan quân Nguyên ở Ðông Bộ Ðầu, giải phóng Thăng Long.

Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiên học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khoá hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.

Trong văn bản Khoá du lục, có bài. “Tự Thiền Tông chỉ nam” của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về.

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề “quốc gia xã tắc” lên trên hết, trước hết như thế. Thái độ đối với “quốc gia xã tắc” là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Ðại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên hòn đạn”, làm vua xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hoá đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho thái tử làm quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng cùng trông coi việc nước.

Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.

♦ Trần Thánh Tông (1258-1278):

Niên hiệu: Thiên Long (1258-1272); Bảo Phù (1273-1278).
Vua Thái Tông có 6 người con: Tĩnh Quốc Ðại vương Trần Quốc Khang, Thái tử Hoảng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông.

Thánh Tông là vị vua nhân từ, trung hậu. Ðối nội vua dốc lòng xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hoá dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy, dưới triều vua Thánh Tông không chỉ có các ông hoàng hay chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc Ðĩnh Chi. Bộ Ðại Việt Sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành vào năm Nhâm Thân (1272).

Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn.

Về đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Ðại Việt. Khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không còn bắt Ðại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt vua ta cứ 3 năm phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại ba người cùng các sản vật: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu vật là khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Ðại Việt, thật ra để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương thường trực cho nước láng giềng. Vua Trần Thánh Tông thừa biết giã tâm xâm lược của nhà Nguyên, nên tuy bề ngoài thần phục, nhưng vẫn khẩn trương tuyển mộ binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó. Năm Bính Dần (1266), vua Nguyên cho sang giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám trị. Vua Nguyên bằng lòng bỏ việc cống người nhưng lại bắt tuân thủ 6 điều khác: Vua phải thân vào chầu khẩu, phải chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ đặt quan giám trị.

Vua Ðại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm Tân Mùi (1271), vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt nhân đổi quốc huyện là Ðại Nguyên đòi vua Thánh Tông. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi. Chúng cho sứ sang tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, vua Thánh Tông trả lời rằng: Cột ấy lâu ngày đã mất.

Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo cơ xâm lược của nhà Nguyên.

Năm Ðinh Sửu (1277), Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc). Năm sau, vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái Khâm rồi về ở phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.

Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.

♦ Trần Nhân Tông(1279-1293):

Niên hiệu:

- Thiệu Bảo (1279-1284);
- Trùng Hưng (1285-1293).

Vua Trần Thánh Tông có 3 con, Thiên Thuỵ công chúa, Thái tử Khâm và Tả Thiên Vương Ðức Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm sinh năm Mậu Ngọ (1258) kế vị ngôi vua, lấy tên là Nhân Tông.

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Ðại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm.

Ngay sau khi Trần Nhân Tông lên ngôi, nhà Nguyên liền sai Lệ bộ Thượng thư sang sứ Ðại Việt. Sài Thung đến kinh thành, lên mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh, rồi cho người đưa thư trách vua Trần Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu thiên triều.

Vua sai đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến. Năm Nhâm Ngọ (1282) vua Nguyên lại cho sứ sang dụ: Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng, ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người. Trần Nhân Tông đành cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam Quốc vương, Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về nước. Hay tin, Trần Nhân Tông sai tướng đem quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đi làm lính. Thấy không thể thu phục được vua Trần, Nhà Nguyên liên tiếp phát động 2 cuộc chiến tranh xâm lược vào các năm 1285, 1287 toan làm cỏ nước Nam. Trong 2 lần kháng chiến này. Trần Nhân Tông đã trở thành ngọn cờ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân dân Ðại Việt vượt qua bao khó khăn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng.

Sau 14 năm làm vua, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành thuỷ tổ phái Thiền Trúc Lâm, Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhân Tông thật sự là một triết gia lớn của Phật thể hiện được đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam. Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu và táo bạo.

Anh hùng cứu nước, triết nhân, thi sĩ là phẩm chất kết hợp hài hoà trong con người Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ Nhân Tông có tâm hồn thanh cao, phó...

8 tháng 11 2016

cop đâu mak dài v~

 

17 tháng 12 2021

Tham khảo

Người khởi đầu cho triều đại nhà Lý là Lý Công Uẩn. Dưới triều vua Lê Long Đĩnh, Lý Công Uẩn là một quan võ giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, khi vua Lê Long Đĩnh qua đời, do có đức, có tài mà Lý Công Uẩn được một số thế lực trong triều đình tôn lên làm Vua. Triều đại nhà Lý trải qua 9 đời vua, trị vì đất nước trong thời gian 126 năm.

17 tháng 12 2021

tham khao:

 

Nhà Lý (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: Lý triều), đôi khi gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều đại trong nền quân chủ Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.

Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm. Vào năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt (大瞿越) thành Đại Việt (大越), mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật giáo nhưng ảnh hưởng của Nho giáo cũng rất cao với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu (1070) và Quốc Tử giám (1076) và tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075, và Trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh. Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm kinh đô, đổi tên thành Thăng Long (昇龍) đã đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước. Những danh thần như Lê Văn Thịnh, Bùi Quốc Khái, Doãn Tử Tư, Đoàn Văn Khâm, Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành,... đã góp sức lớn về văn trị và chính trị, tạo nên một nền văn hiến rực rỡ của triều đại nhà Lý.

Quân đội nhà Lý được xây dựng có hệ thống đã trở nên hùng mạnh, ngoài chính sách Ngụ binh ư nông, các Hoàng đế nhà Lý chủ trương đẩy mạnh các lực lượng thủy binh, kỵ binh, bộ binh, tượng binh,... cùng số lượng lớn vũ khí giáo, mác, cung, nỏ, khiên và sự hỗ trợ công cụ công thành như máy bắn đá, những kỹ thuật tiên tiến nhất học hỏi từ quân sự Nhà Tống. Việc trang bị đầu tư và quy mô khiến quốc lực dồi dào, có đủ khả năng thảo phạt các bộ tộc man di ở biên giới, cũng như quốc gia kình địch phía Nam là Chiêm Thành hay cướp phá thường xuyên, bảo vệ thành công lãnh thổ và thậm chí mở rộng hơn vào năm 1069, khi Lý Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành và thu về đáng kể diện tích lãnh thổ. Quân đội nhà Lý còn vẻ vang hơn khi đánh bại quân đội của Vương quốc Đại Lý, Đế quốc Khmer và đặc biệt là sự kiện danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân đội đánh phá vào lãnh thổ Nhà Tống vào năm 1075, dẫn đến Trận Như Nguyệt xảy ra trên đất Đại Việt và quân đội hùng mạnh của nhà Tống hoàn toàn thất bại.

Bên cạnh quân sự, nhà Lý còn nổi tiếng về nghệ thuật với kinh đô Thăng Long – một quần thể kiến trúc vĩ đại và hoa lệ. Những hiện vật về mái ngói, linh thú trang trí trên nóc mái và các loại gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ cao của các nghệ nhân thời Lý. Con Rồng thời Lý được xem là hình tượng đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình đương thời, bên cạnh các tượng Phật lớn còn lại cho thấy tư duy đồ sộ của người thời Lý là rất lớn. 3 trong 4 bảo vật của An Nam tứ đại khí là Tháp Báo Thiên, Chuông Quy Điền và Tượng phật Chùa Quỳnh Lâm được tạo ra trong thời đại nhà Lý. Cùng với sự sùng đạo Phật, những tinh hoa nhất của nghệ thuật thời Lý đa phần đều thể hiện qua các bức tượng Phật, chùa chiền.

 

29 tháng 11 2016

Sớm phát hiện được mưu đồ của kẻ thù, vua tôi nhà Lý đã chủ động tiến hành các biện pháp chuẩn bị đối phó. Thái uý Lý Thường Kiệt được cử làm người chỉ huy, tổ chức cuộc kháng chiến.
Lý Thường Kiệt cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm. Các tù trưởng được phong chức tước cao, được lệnh mộ thêm binh đánh trả các cuộc quậy phá, làm thất bại âm mưu dụ dỗ của nhà Tống. Để ổn định địa phận phía nam, Lý Thánh Tông cùng với Lý Thường Kiệt đem quân đánh bại ý đồ tiến công phối hợp của nhà Tống với Cham-pa.
Trước tình hình nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt thực hiện chủ trương độc đáo, sáng tạo "tiến công trước để tự vệ". Ông thường nói : "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc". Do đó, ông đã gấp rút chuẩn bị cho cuộc tấn công vào những nơi tập trung quân lương của nhà Tống, gần biên giới Đại Việt.
Tháng 10 - 1075, Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thuỷ - bộ, chia làm hai đạo tấn công vào đất Tống. Quân bộ do các tù trưởng Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy dân binh miền núi đánh vào châu Ung (Quảng Tây). Lý Thường Kiệt chỉ huy cánh quân đường thuỷ, đổ bộ vào châu Khâm, châu Liêm (Quảng Đông). Sau khi tiêu diệt các căn cứ tập kết quân, phá huỷ các kho tàng của giặc, quân Lý Thường Kiệt tiến về bao vây thành Ung Châu, căn cứ của quân Tống. Sau 42 ngày chiến đấu, quân nhà Lý hạ được thành Ung Châu, tướng Tô Giám nhà Tông phải tự tử. Đạt được mục tiêu, Lý Thường Kiệt chủ động rút quân, chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước.
Trận tập kích này đã đánh một đòn phủ đầu, làm hoang mang quân Tống, đày chúng vào thế bị động.
Ấn Độ giáo là tên chỉ những nhánh tôn giáo chính có tương quan với nhau và hiện còn tồn tại ở Ấn Độ. Khoảng 80% người Ấn Độ tự xem mình là người theo Ấn Độ giáo và người ta cho rằng, có khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại hải ngoại.

 

Người theo đạo Hindu từ thời cổ đã chia cuộc đời một người đàn ông thành bốn thời kỳ. Lối sống ấy, trải qua nhiều thế kỷ chịu ảnh hưởng của Hồi giáo và của người Anh, đã phai nhạt và ngày nay không tồn tại nữa.

Brahmachrya (độc thân từ bé cho đến 25 tuổi); đây là thời kỳ đầu tiên chàng thiếu niên, sau khi được làm lễ đeo sợi dây thiêng, rời gia đình để đi học. Trường học (gurukula) thường là những căn lều cỏ giữa rừng hoặc nơi xa xóm làng. Tại đó, thầy giáo sống cùng với gia đình mình và đám môn sinh. Môn sinh không bị phân biệt vị trí xã hội, phải chăm sóc thầy mình như cha đẻ và làm mọi công việc lao động chân tay ở trường. Môn sinh được học thần chú Gayatri (kinh cầu), học yoga, nghiên cứu các bản kinh, nghệ thuật, khoa học và học cách sống đời giản dị, tự kỷ luật thanh đạm. Họ được rèn giũa để phát ngôn chân thật, làm việc mà không quên tinh thần Dharma, phục vụ người cao tuổi, kính trọng cha mẹ, sư phụ và khách quý như kính trọng thần thánh.

Grahasthya (làm chủ gia đình): sau khi hoàn tất việc học hành, môn sinh trở về nhà, lập gia đình. Hôn nhân không chỉ là một sự thỏa thuận mà là một bước thiêng liêng trong sự phát triển tinh thần của con người. Người vợ là Ardhangini, hay là một nửa của người chồng, cho nên không có một nghi lễ tôn giáo nào được chồng thực hiện mà lại thiếu người vơ. Người chủ gia đình phải thực hiện đạo đức tốt, làm ra tàisản vật chất, được phép hưởng đời sống dục lạc với người bạn đời của mình và đạt tới giải thoát bằng cách tuân theo những quy tắc đạo đức. Thời kỳ thứ hai này được coi là quan trọng nhất trong bốn thời kỳ. Người chủ gia đình kiếm sống phù hợp với nguyên tắc đạo đức và phải dành 1/10 thu nhập vào việc từ thiện. Anh ta phải lo việc an cư bằng cách xây một căn nhà cho vợ. Rồi anh ta có bổn phận chăm sóc, giáo dục con cái, sau đó dựng vợ gả chồng cho chúng. Thực hiện những nghĩa vụ tinh thần và nghĩa vụ xã hội, vượt qua mọi thử thách khó khăn mà không đi chệch tinh thần Dharma giúp cho người đàn ông trở thành người cao quý.

Vanaprastha (hưu trí): người đàn ông bước sang thời kỳ thứ ba, lúc con cái đã có gia đình riêng và tự lập. Đây là lúc cặp vợ chồng trung niên được nghỉ ngơi, tức là đã đến lúc chấm dứt những ràng buộc và ham muốn trần tục, lui về cuộc sống bình yên của thiền định, tập trung và theo đuổi những mối quan tâm về tinh thần.

Sanyas (lánh đời): thời cổ, đây là lúc người đàn ông từ bỏ mọi ham muốn, mọi nhu cầu, không dùng đến tiền bạc và xa lánh cõi tục. Họ sống nhờ cúng dường và hoa quả trong rừng, dành hết thời gian vào việc thiền định. Lúc này, họ được gọi là Jivanmukta-người đã được giải thoát khỏi cuộc sống bình thường.

29 tháng 11 2016

Câu 1: - Quân Tống bất ngờ vượt sông nhưng bị quan ta chặn đánh => giặc chán nản mệt mỏi

- Cuối năm 1077, Lý Thường Kiệt cho quân tấn công bất ngờ, quân Tóng thua to.

- Nhà Lý chủ động kết thúc chiến tranh bằng giảng hòa.

Ý nghĩa: nền độc lập của nước Đại Việt được giữ vững.

-----------------------------------------------------------------------------

Câu 2:

Giáo dục:

- Năm 1070, văn miếu được xây dựng ở Thăng Long.

- Năm 1075, mở khoa thi đầu tiên.

- Năm 1076, mở quốc tự giám.

Văn hóa:

- Đạo Phật phát triển, chùa chiềng mọc lên khắp nơi.

- Các trò chơi dân gian, các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú.

- Kiến trúc và điêu khắc phong phú và đa dạng: tượng phật a di đà, chùa 1 cột, hình rồng thời Lý,..

-----------------------------------------------------------------------------

Câu 3: Hơn 80% dân số dân số Ấn Độ theo đạo Hin-đu. Đạo Hin-đu ở Ấn rất phát triển, ảnh hưởng rất lớn tới đời sống văn hóa, ngôn ngữ và kiến trúc của Ấn Độ, với những chùa chiềng, tác phẩm văn học,...Ngoài ra, tôn giáo-đạo Hin-đu còn ảnh hưởng truyền thống sang một số nước khác như Trung Quốc, Cam-pu-chia và cả Việt Nam,..v.v. Đặc biệt ở Cam-pu-chia, ngôn ngữ được chuyển từ tiếng Hin-đu xưa.

13 tháng 12 2016

Trong khi nhà Tống đang tiến hành xâm lược Đại Việt, Thái úy Lý Thường Kiệt được cử làm chỉ huy.Ông cho quân đội luyện tập và canh phòng suốt ngày đêm.Ông thực hiện chủ trương độc đáo"tiến công trước để tự vệ",ông thường nói"ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc.Tháng 10-1075,Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chỉ huy hơn 10 vạn quân thủy bộ đánh vào đất Tống.Trận tập kích này đã đánh 1 đòn phủ đầu ,làm hoang mang quân Tống,dẩy chúng vào thế bị động.Sau khi về nước LTK cho xây dụng phòng tuyến sông Như Nguyệt đói phó với quân xâm lược Tống.Khi quân Tống thua to,LTK chủ động kết thúc chiến tranh bằng biện pháp thương lượng,giảng hòa. Qua cuộc kháng chiến chống Tống này e thấy Lý Thường Kiệt đúng là 1 tên tuổi đáng được ghi danh vào lịch sử .

11 tháng 12 2016

2.

Người anh hùng dân tộc vĩ đại, danh tướng kiệt xuất Lý Thường Kiệt (1019-1105)

Ông quê ở Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Ông là danh tướng kiệt xuất thời nhà Lý (Thời hậu Lý). Ông không những văn, võ toàn tài mà còn là nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất. Ông đã để lại cho đời những mốc son chói lọi về sự nghiệp quân sự cũng như những cải cách tiến bộ làm cho nước ta thời kỳ đó rất hưng thịnh.

 

Trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, Ông thể hiện thiên tài quân sự để lại dấu ấn bằng những trận đánh để đời làm cho giặc xâm lăng bạt vía kinh hồn, người đời và hậu thế thán phục. Trận đánh cuối năm 1075 và đầu năm 1076 trên biên giới Tống là trận thắng rất độc đáo trên đất giặc, Ông chủ động đánh đòn phủ đầu lên quân giặc làm tiêu hao đáng kể sinh lực địch, tiêu hủy hậu cần, san phẳng thành lũy Tống, dập tắt ý đồ xâm lược nước ta và làm nhụt nhuệ khí bọn cầm quyền phương Bắc; Có được kết quả đó, còn là sự tài giỏi sáng suốt của Ông trong kết hợp với dân vận để cho nhân dân hai nước gần biên giới hiểu rõ chính nghĩa của ta là đánh giặc giữ nước và cứu dân làm cho nhân dân hai nước đồng tính ủng hộ.

Nhưng làm nên tên tuổi người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là chiến thắng giặc Tống tại sông Như Nguyệt (Nay là sông Cầu) đầu năm 1077 là một trong những trận đánh hay nhất trong nghệ thuật quân sự của nước nhà cũng như thế giới và một trong những trận thắng hay nhất trong lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của ông cha ta. Cái hay cái độc đáo ở chổ Ông kết hợp vừa dùng võ đánh giặc, vừa dùng văn (Ngày nay gọi là chiến tranh tâm lý) để đuổi giặc, trong đêm Ông sai người vào Đền thờ Trương Hống, Trương Hát, đọc bài thơ“Sông núi nước Nam” với hồn thơ đanh thép khẳng định chủ quyền Quốc gia thiêng liêng “Sông núi nước Nam, vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời.), nếu kẻ nào xâm phạm sẽ bị đánh tơi bời “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.”, giặc nghe mất vía cho là bài thơ thần liền buông vũ khí đầu hàng, ta tha chết cho chúng về nước, vừa thắng giặc, vừa đỡ đổ máu cho tướng sỹ, vừa tránh thiệt hại cho dân. Bài thơ bất hủ này cũng là Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Ông không những dẹp yên giặc phương Bắc mà còn dẹp yên giặc ở phương Nam, giữ ổn định về chính trị để Đất nước được cường thịnh.

Lý Thường Kiệt là anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thời nhà Lý mà tên tuổi và sự nghiệp vẫn sáng chói mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân ta đã lập đền thờ Ông ở nhiều nơi với lòng thành kính Bậc tiên hiền có công lớn trong dựng nước và giữ nước.

30 tháng 11 2017

Bài 12 : Đời sống kinh tế, văn hóa thời Lý

17 tháng 11 2016
  1. À,cậu không ghi thông tin sao mình làm được
  2. Mình không tìm thấy bất cứ thông tin gì về câu hỏi trên

Mình xin lỗi nhé

17 tháng 11 2016

méo có thông tin

 

17 tháng 10 2021

Đinh Bộ Lĩnh là người có công lớn trong việc dẹp loạn 12 sứ quân.Việc đặt tên nước chọn kinh đô và không dùng niên hiệu của hoàng đế trung Quốc đã khẳng định đất nước ta là “nước Việt lớn”, nhà Đinh có ý thức xây dựng nền độc lập tự chủ