Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

- Giọng văn biến đổi linh hoạt, đa dạng: khi bi thiết nghẹn ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát khiến cho bài hịch vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng, không rơi vào tình trạng giáo điều khô cứng, cũng không phải là sự ủy mị, lãng mạn.
- Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén với hệ thống luận điểm, dẫn chứng rõ ràng, đầy thuyết phục: tác giả đi từ những tấm gương trong sử sách - sự thực không ai có thể chối cãi-> giãi bày tấm lòng mình → ân nghĩa của chủ tưởng đối với binh sĩ → những việc làm sai trái của họ → những việc họ nên làm → gợi ý sách nên đọc → kết luận
- Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả phân tích được rõ thiệt hơn, tình hình thực tế và trong tương lai của những con người ấy.
- Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại đặc biệt là tác giả sử dụng dày đặc các câu văn biền ngẫu sóng đôi - một đặc trưng của văn học trung đại, tạo nên nhịp điệu gấp gáp, hối hả, giục giã cho bài hịch.
- Sử dụng những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi, thân thuộc, dễ hiểu nhưng lại vô cùng giàu sức gợi.

Đặc sắc nghệ thuật
Bố cục truyệntheo dòng hồi tưởng, cảm nghĩ của nv tôi, theo trình tự thời gian của một buổi tựu trường.
Kết hợp hài hào giữa kể, tả và bộc lộ cảm xúc
* Sức cuốn hút được tạo nên bởi:
- Đặc sắc nghệ thuật của truyện tạo nên chất thơ
- Chất trữ tình thiết tha, trong trẻo từ:
+ Tình huống truyện
+ Tình cảm ấm áp của người lớn
+ Hình ảnh thiên nhiên, ngôi trường
+ Cách so sánh giàu chất trữ tình.
Chúc bạn học tốt

Bằng sức mạnh riêng của nghệ thuật, nhà văn đã đưa nhân vật từ nơi u tối ra miền ánh sáng,. Đó chính là điều Nguyễn Dữ đã làm trong Chuyện người con gái Nam Xương vàNgười nghĩa phụ ở Khoái Châu. Có phải, đó chính là cái đẹp của văn chương?I. Về phương diện nội dung
1. Mối quan hệ hôn nhân
a. Chồng:
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nhân vật Trương Sinh được giới thiệu:Trương Sinh có tính cả ghen, hay để tâm xét nét vợ, nhưng vợ chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy ra.Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa được bao lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải từ giã mẹ và vợ đi lính thú
Qua cách giới thiệu này, ta thấy tác giả dân gian chỉ nói đến nhân vật Trương Sinh có đặc điểm hạn chế thường thấy của đàn ông là hay có tính ghen tuông và thường hay xét nét vợ mình, ngoài ra chàng không hề có một “ưu điểm” nào. Theo quan điểm Nho giáo cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì việc Vũ Thị Thiết gặp một người chồng như thế cũng không có gì gọi là may mắn. Xây dựng kiểu nhân vật có mỗi đặc điểm đơn điệu như thế, phải chăng tác giả dân gian chỉ dùng nó cho mục đích dẫn dắt tính tất yếu của bi kịch ghen tuông sau này?
Nhưng ở Chuyện người con gái Nam Xương, nhân vật Trương Sinh xuất hiện đầy đủ các mặt ưu và nhược điểm: Chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra triều đình bắt đi lính đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu.
Về ưu điểm, đó là chàng biết chọn vợ (mến vì dung hạnh) và sống có khuôn phép, tôn trọng mẹ (xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về). Và điều quan trọng, chàng Trương thuộc gia đình dòng dõi, phong lưu (con nhà hào phú). Còn nhược điểm, thứ nhất, cũng giống như truyệnVợ chàng Trương, Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Điều này thuộc bản tính tự nhiên, thường tình, rất người. Thứ hai, chàng không có học. Tuy không có học nhưng qua cách tìm vợ và phép tắc với mẹ, ta thấy chàng không phải không biết cách xử sự. Dù rằng, Trương Sinh không thật hoàn hảo, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, với Vũ Nương, nàng lấy được tấm chồng như thế cũng là quá may mắn. Hãy đặt trong sự so sánh với người phụ nữ cùng thời, nàng còn hơn bao kẻ khác. Biết bao người phụ nữ gặp hoàn cảnh đắng cay vẫn phải cắn răng mà chịu đựng:
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi! Cho tôi mượn cái gầu sòng
Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.
- Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm
Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái ôm lưng lão già
Ông ơi, ông buông tôi ra
Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.
(Ca dao)
Như thế, tuy chưa phải hoàn hảo, nhưng Trương Sinh vẫn có nhiều ưu điểm của người chồng để đáng được trân trọng. Thêm vào những chi tiết đề cao thế mạnh của chàng Trương như thế, hẳn Nguyễn Dữ có dụng ý riêng trong việc xây dựng nhân vật của mình.
b. Mẹ chồng
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, hình ảnh mẹ chồng chỉ được gợi đến một cách rất mờ nhạt:Nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống táng đều lo liệu chu toàn. Ở đây, tác giả dân gian chỉ nói đến quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất mờ nhạt.
Còn trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình ảnh mẹ chồng được khắc họa rất rõ nét ở những thời điểm:
- Khi tiễn Trương Sinh đi lính:Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng: “Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được”. Thêm vào chi tiết này, Nguyễn Dữ gợi dẫn cho người đọc nhận thức về một người mẹ có tầm hiểu biết.
- Khi sắp qua đời: Bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Từ lời trăng trối của mẹ chồng, ta nhận thấy mối quan hệ hai chiều trong tình cảm mẹ chồng – nàng dâu. Người mẹ thấu hiểu công lao và sự thơm thảo của con dâu trong miếng cơm miếng cháo, khi sống chết không khỏi phiền đến con. Điều này trong xã hội phong kiến rất hi hữu, thường là Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau (ca dao). Đặc biệt, mẹ chồng Vũ Nương đã đặt vào con dâu bằng tất cả niềm tin, hi vọng trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Liệu nàng có hiểu hết tấm lòng người mẹ chồng dành cho nàng Con dâu mới thật mẹ cha mua về (ca dao)? Trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả thêm vào lời thoại ở hai thời điểm như thế nên hình ảnh người mẹ chồng đã được nổi bật rất rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó cũng là lợi thế – giá trị tinh thần mà mấy nàng dâu gặp được trong xã hội bấy giờ. Đó không phải là điều có một không hai sao, khi ca dao đã từng nói:
Thật thà cũng thể lái trâu
Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Qua việc so sánh cách xây dựng mối quan hệ hôn nhân trong hai tác phẩm, ta thấy ý đồ của truyện cổ tích Vợ chàng Trương và Chuyện người con gái Nam Xương hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, tác giả dân gian xây dựng chi tiết này chỉ mang tính dẫn dắt cho sự tiếp diễn những sự việc sau, thì với Nguyễn Dữ, ngoài việc dẫn dắt, ông đã gợi cho người đọc nhận thức về hoàn cảnh Vũ Nương. Trong xã hội phong kiến khắt khe, có một hoàn cảnh đầy ưu thế như vậy, liệu Vũ Nương có ý thức được điều may mắn hiếm có ấy để phát huy trong cuộc sống hay không? Như thế, dùbi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được chọn chồng của người phụ nữ, thì với nàng, điều may mắn đã đến. May mắn như thế, nhưng Vũ Nương có coi là quan trọng để biết cách gìn giữ, thì điều đó lại tùy thuộc vào ý thức, trách nhiệm của nàng trước cuộc sống.
Xây dựng mối quan hệ hôn nhân với nhiều điều may mắn hơn so với Vợ chàng Trương, phải chăng Nguyễn Dữ để người đọc thấy được một Vũ Nương có những ưu thế trong tay nhưng đã không biết phân biệt điều hơn, lẽ thiệt giữa đời nên dẫn đến việc lựa chọn cái chết đầy tính ích kỉ?
2. Bi kịch ghen tuông
Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nguyên nhân bi kịch ghen tuông được kể: Tối nào bố Đản cũng đến… Mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi…Chẳng bao giờ bố bế Đản cả…
Mấy lời nói vô tình của đứa bé làm cho Trương Sinh tin là vợ mình ngoại tình, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến người vợ trong tay kẻ khác, cơn ghen tự dưng bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: “Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì nó ở nhà lại như thế kia”. Về đến nhà Trương Sinh mắng nhiếc vợ tàn tệ: “Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng đi vắng, tối rước trai về nhà”. Chàng mắng dữ dội nhưng không bảo là tự miệng con nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi: “Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một dạ, đâu có hư thân mất nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan cho thiếp”. Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối vũ phu để tra khảo vợ. Hàng xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can ngăn, nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được lòng mọi người che lấp tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy con...

Yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" đã được tác giả Nguyễn Dữ thể hiện thật nhiều ở phần kết với những yếu tố trong truyện cổ tích. Đó là chi tiết Phan Lang - người cùng làng với Vũ Nương nằm mộng thả rùa và khi Phan Lang chạy nạn bị chết đuối đã được thần rùa Linh Phi cho uống thuốc tiên sống lại, cho trở về trần gian. Đó là chi tiết Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang và trở về trên chiếc kiệu hoa lấp lánh giữa dòng lúc ẩn, lúc hiện. Đây cũng là những chi tiết làm hoàn thiện nét đẹp tâm hồn của Vũ Nương: vẫn luôn khát khao được phục hồi danh dự, vẫn mong muốn được chàm lo cho chồng con, nhà cửa. Và đồng thời đây cũng là một kết thúc có hậu, thể hiện được ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng trong cuộc đời người tốt dù có bị nghi oan rồi cũng được đền trả xứng đáng và cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác.
bạn có thể sơ đồ tư duy lại nó hoặc chia thành các luận điểm giúp mình được không

- Tình huống truyện: Bất ngờ, ngoài sự dự đoán của độc giả. Tình huống đó làm sáng ngời nhân cách của lão Hạc trong lòng người đọc (không ai nghĩ rằng lão Hạc lại tự hủy diệt cuộc đời mình bằng bả chó.
- Cách xây dựng nhân vật: Chân thực sinh động, từ ngoại hình đến nội tâm, đặc biệt là miêu tả khuôn mặt của lão Hạc khi khóc.
- Tác dụng của ngôi kể: Chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi chân thực, làm cho người đọc có cảm tưởng câu chuyện như đang diễn ra trước mắt.

Thành công trong nghệ thuật kể chuyện của văn bản “Trong lòng mẹ” thể hiện ở:
- Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để bộc lộ tính cách và nội tâm nhân vật.
- Thể loại hồi kí có đan xen giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm (kể chuyện với giọng văn thấm đẫm chất trữ tình) giúp diễn tả đầy đủ, sâu sắc chủ đề văn bản.

- Khắc họa tài tình tính cách lố lắng của nhân vật thông qua lời nói, hành động
- Dựng lên lớp hài kịch ngắn, với những mâu thuẫn kịch được thể hiện sinh động, hấp dẫn, gây cười
- Sử dụng lời thoại sinh động, chân thực và phù hợp, nghệ thuật tăng cấp khiến cho lớp kịch càng ngày càng hấp dẫn, tính cách nhân vật được khắc họa thành công, rõ nét.

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng. Đây là sự khái quát hoá tấm lòng, sự ngộ nhận và sự hiểu lầm của từng nhân vật. Hình ảnh này hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân cách của Vũ Nương, đồng thời cũng thể hiện rõ nét hơn số phận bi kịch của Vũ Nương nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.
- Nghệ thuật dựng truyện. Dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Chi tiết chiếc bóng là đầu mối câu chuyện lại chỉ xuất hiện một lần duy nhất ở cuối truyện, tạo sự bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện.
- Có nhiều sự sáng tạo so với cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” bằng cách sắp xếp thêm bớt chi tiết một cách độc đáo.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc hoạ đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
- Sử dụng yếu tố truyền kỳ (kỳ ảo) làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Yếu tố kỳ ảo, hoang đường làm câu chuyện vừa thực vừa mơ, vừa có hậu vừa không có hậu, làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Kết hợp các phương thức biểu đạt: Tự sự + biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng văn xuôi tự sự còn sống mãi với thời gian.