
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


chính sách '' ngụ binh ư nông '' - gửi binh ở nhà nông :là chính sách quân sự cho quân lính luân phiên nhau giữa sản xuất và luyện tập trong thời binh . Lúc đó chiến tranh sẽ huy động tất cả đi chiến dấu .
Vì đó là một chiến lược đảm bảo một sức mạnh quân sự cần thiết trong khi không làm mất lực lượng lao động. Ở các địa phương, sẽ có những thanh niên trai tráng được huấn luyện như binh lính, thường thì một năm sẽ có một vài kì tập luyện. Trong thời bình, họ vẫn là nông dân nhưng khi chiến sự xảy ra, họ lập tức được huy động vào quân đội.
Kiến thức bản thân

Vì khi thực hiện chính sach "ngụ binh ư nông" sẽ giúp cho nhà Ly:
+)Nhu cầu bảo vệ đất nước và bảo vệ chính quyền cai trị cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp cho đời sống cũng rất lớn. Vì vậy việc đưa quân về địa phương luân phiên cày cấy giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình
+) Ngụ binh ư nông là việc liên kết hài hoà giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự, chuyển hóa nhanh từ thời bình và sang thời chiến khi cần. Nhờ chính sách này, triều đình có được lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo trong khi sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì.
+)Chính sách ngụ binh ư nông phản ánh tư duy nông binh bất phân (không phân biệt quân đội và nông dân), đâu có dân là đó có quân, phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất, vừa đánh giặc.

1. Xét về cấu tạo câu tục ngữ thuộc kiểu câu ghép vì nó có 3 cụm C-V làm nòng cốt trong câu.
3. Chuyển câu tục ngữ này từ tiếng Hán Việt sang tiếng Việt thì nó có nghĩa là: thứ nhất nuôi cá, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng. Thứ tự nhất, nhị, tam cũng là thứ tự lợi ích của các nghề nuôi cá, làm vườn, trồng lúa mang lại cho người nông dân.
Trong các nghề kể trên, đem lại nhiều lợi ích nhất là nuôi cá (canh trì), tiếp theo là nghề làm vườn (canh viên), sau đó là làm ruộng (canh điền).
Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là: Muốn làm giàu, cần phải phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lợi nhuận lớn gấp nhiều lần trồng lúa.
Nhưng không phải thứ tự trong câu tục ngữ áp dụng nơi nào cũng đúng mà chúng phụ thuộc vào đặc điểm địa lí tự nhiên của từng vùng. Ở vùng nào có đặc điểm địa lí phong phú thì cách sắp xếp theo trật tự đó là hợp lí nhưng đối với những nơi chỉ thuận lợi cho một nghề phát triển, chẳng hạn nghề làm vườn hay làm ruộng, thì vấn đề lại không như vậy. Nói tóm lại, con người phải linh hoạt, sáng tạo trong công việc để tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.

câu 1:
Dưới lớp vỏ của tôm có rải đều các tế bào sắc tố màu sắc cực kỳ phong phú, những tế bào này tuỳ theo độ mạnh yếu của ánh nắng mặt trời chiến lên mà biến đổi thành những màu sắc khác nhau, ánh mặt trời mạnh thì màu sắc tươi sáng, ánh mặt trời yếu thì màu sắc sẫm, tối. Tuy trên mình tôm có nhiều tế bào sắc tố nhưng trong đó sắc tố đỏ là nhiều nhất. Khi bị hấp hoặc luộc ở nhiệt độ cao, những sắc tố của tôm sẽ bị phân huỷ, chỉ có sắc tố đỏ có thể chịu được nhiệt độ cao mà không bị phân huỷ. Vì thế tôm bị hấp hay luộc sẽ có màu đỏ tươi mà không có thêm màu nào khác. Bộ phận vỏ cứng nhất cũng có nhiều sắc tố đỏ hơn, khi chín màu cũng là màu đỏ, những chỗ phân bố ít sắc tố đỏ màu cũng nhạt hơn.
Đó là do sự thay đổi cấu trúc của một loại protein trên lớp vỏ, có tên gọi beta-crustacyanin. Một phần của phân tử này có thể thay hình đổi dạng, kéo theo sự biến dạng của một phân tử khác gắn kèm với nó là astaxanthin.

Câu 1: Có các điều kiện phát triển - điều kiện tự nhiên thuận lợi
-Trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến
-Hình thức tổ chức hiện đại
Có các đặc điểm phát triển :
-Rất phát triển
-sản xuất trên quy mô lớn đạt trình độ cao
-Tỉ lệ lao động trong nông nghiệp rất thấp
-Năng suất lao động rất cao, sản xuất ra khối lượng nông sản lớn
-Hoa Kì và Canada là nững nước có xất khẩu nông nghiệp đứng hàng đầu thế giới
Câu 2:
https://h7.net/hoi-dap/dia-ly-7/neu-vi-tri-dia-li-cua-chau-mi-faq167153.html
Link câu 2 đó bạn:>
Chúc bạn học tốt:3

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?
Trả lời: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, không gò bó về số câu, số chữ và cách gieo vần.
Câu 2. Chỉ ra phương thức biểu đạt của bài thơ.
Trả lời: Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm kết hợp với tự sự và miêu tả.
Câu 3. Từ “bình minh” trong câu thơ “Đang nói về bình minh” có phải là từ láy không? Tại sao?
Trả lời: Không, “bình minh” không phải là từ láy.
Vì đây là từ ghép Hán Việt (bình = yên bình, minh = sáng), chỉ thời điểm sáng sớm, mang ý nghĩa rõ ràng chứ không có yếu tố lặp âm như từ láy.
Câu 4. Chỉ ra cách ngắt nhịp của các câu thơ trong bài thơ.
Trả lời: Cách ngắt nhịp thường thấy là 2/2 hoặc 2/3, ví dụ:
- Tôi học / cây xương rồng (2/3)
- Tôi học / lời con trẻ (2/3)
- Lời răn / dạy đời mình (2/3)
Câu 5. Nêu ý nghĩa nhan đề của bài thơ.
Trả lời:
Nhan đề "Ngụ ngôn của mỗi ngày" gợi liên tưởng đến những bài học mang tính triết lý, được rút ra từ những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày.
Tác giả như muốn nói: cuộc sống mỗi ngày là một bài học quý báu, và mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều có thể trở thành một bài học nếu ta biết lắng nghe và chiêm nghiệm.
Câu 6. Những từ “trang giấy, nụ hồng, xương rồng, nắng bão, ngọn gió” thuộc từ loại nào?
Trả lời: Những từ đó đều thuộc danh từ.
- Chỉ sự vật, hiện tượng: trang giấy, nụ hồng, xương rồng, nắng bão, ngọn gió.
Câu 7. Em hiểu thế nào về những câu thơ sau:
Tôi học cây xương rồng
Trời xanh cùng nắng bão
Tôi học trong nụ hồng
Màu hoa chừng rỏ máu
Trả lời:
Tác giả học được từ cây xương rồng và nụ hồng bài học về sự kiên cường, mạnh mẽ và nghị lực sống.
- Xương rồng sống trong nắng gió khắc nghiệt nhưng vẫn vươn lên xanh tốt, tượng trưng cho nghị lực.
- Nụ hồng rực rỡ nhưng ẩn sau vẻ đẹp là sự hy sinh, gian khổ (máu), thể hiện vẻ đẹp đầy đau thương và cao quý.
Câu 8. Theo em, tác giả học được bài học gì trong hai câu thơ:
Tôi học lời của biển
Đừng hạn hẹp bến bờ
Trả lời:
Tác giả học được bài học về sự rộng lượng, bao dung và không giới hạn bản thân trong khuôn khổ chật hẹp.
Biển đại diện cho sự bao la, rộng lớn, khuyên con người nên sống cởi mở, vượt qua những giới hạn nhỏ bé của mình.
Câu 9. Chỉ ra và phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ nổi bật trong bài thơ.
Trả lời:
Biện pháp tu từ nổi bật là nhân hóa và ẩn dụ.
- Tác giả nhân hóa cây cối, thiên nhiên, trẻ em, người già… như những “người thầy” dạy mình bài học.
- Ẩn dụ được sử dụng để thể hiện bài học sâu sắc: “nụ hồng” = vẻ đẹp có thể phải đánh đổi bằng máu, “biển” = sự rộng lớn, bao dung.
→ Tác dụng: Giúp bài thơ mang màu sắc triết lý sâu sắc, gần gũi, dễ cảm nhận và khơi gợi suy ngẫm nơi người đọc.
Câu 10. Hãy nhận xét về quan niệm về việc học của tác giả thể hiện trong bài thơ.
Trả lời:
Tác giả có quan niệm mở rộng và sâu sắc về việc học.
- Học không chỉ ở sách vở, nhà trường, mà còn từ thiên nhiên, con người, cuộc sống.
- Học từ những điều giản dị, gần gũi quanh ta mỗi ngày.
→ Đó là một quan niệm học tập tích cực, chủ động, không giới hạn, thể hiện tinh thần ham học hỏi và sự trưởng thành trong tư duy - đúng tick cho mik nha
là (Ngụ binh ư nông (chữ Hán: 寓兵於農), theo nghĩa tiếng Việt là "gửi binh ở nông: gửi quân vào nông nghiệp, cho binh lính lao động, sản xuất tại địa phương trong một khoảng thời gian xác định", làchính sách xây dựng lực lượng quân sự thời phong kiến ở Việt Nam, áp dụng từ thời nhà Đinh đến thời Lê Sơ.)
Ngụ binh ư nông (chữ Hán: 寓兵於農), theo nghĩa tiếng Việt là "gửi binh ở nông: gửi quân vào nông nghiệp, cho binh lính lao động, sản xuất tại địa phương trong một khoảng thời gian xác định", là chính sách xây dựng lực lượng quân sự thời phong kiến ở Việt Nam, áp dụng từ thời nhà Đinh đến thời Lê Sơ.
Đây là chính sách xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Nhà Đinh là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam áp dụng chính sách này. Bắt đầu từ thời Lý, quân đội được xây dựng mang tính chính quy và phân cấp thành quân triều đình (cấm quân đóng ở trong và xung quanh kinh thành, chịu trách nhiệm canh gác cung điện, phủ quan..., còn gọi là "thiên tử binh") và quân địa phương (quân ở các lộ, đạo, dân binh ở hương, động, sách... còn gọi là "lộ quân" hay "sương quân"). Sang thời Trần có thêm quân của các vương hầu nhưng số lượng không đáng kể. Sang thời Hậu Lê thì lực lượng này bị xoá bỏ, chính sách ngụ binh ư nông áp dụng cả với cấm quân ở kinh thành. Từ thời Mạc, áp dụng chế độ "lộc điền" (hay còn gọi là "binh điền") nhằm ưu đãi cho lực lượng quân đội, chính sách ngụ binh ư nông không còn được áp dụng[1]. Tới khoảng năm 1790, một dạng của phép ngụ binh ư nông được Nguyễn Ánh thi hành ở khu vực Gia Định, miền cực nam Đại Việt, theo đó binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp. Họ vừa tham gia chiến đấu vừa được khuyến khích lẫn bị bắt buộc cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh