
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.


Tần Thủy Hoàng bị người đời sau xem là bạo chúa và chính sách cai trị của nhà Tần cũng bị hậu thế liệt vào loại hà khắc nhất trong lịch sử. Tuy nhiên những văn vật và ghi chép khai quật được lại cho thấy một số điểm trái ngược với quan niệm này.
Em có nhận xét về những chính sách của Tân Thủy Hoàng
Tích cực
Hạn chế

Chuyển biến về xã hội
- Với chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc, các thành phần trong xã hội đều có sự biến đổi.
- Một số quan lại, địa chủ người Hán bị Việt hóa.Tầng lớp hào trưởng bản địa hình thành từ một bộ phận quý tộc trong xã hội Âu Lạc cũ, có uy tín và vị thế quan trọng trong đời sống xã hội.
- Mẫu thuẫn chủ yếu trong xã hội lúc bấy giờ là mẫu thuẫn của nhân dân Âu Lạc với chính quyền đô hộ phong kiến phương Bắc. Đó là nguyên nhân làm bùng lên các cuộc đấu tranh giành độc lập liên tục trong thời kì Bắc thuộc.

Những chính sách cai trị của nhà Hán là :
+ Đặt ra nhiều thứ thuế
+ Bắt nhân dân ta phải thực hiện nghĩa vụ cống nạp và lao dịch
+ Thực hiện chính sách đồng hóa dân tộc bằng cách đưa người Hán sang sinh sống với người Việt và bắt người Việt phải học theo phong tục của người Hán
- Đó là một chính sách hết sức bất công và ép buộc , mooth chính sánh thể hiện rõ lòng vô cảm , tàn bạo , xấu xa, bỉ ổi , thủ đoạn của người Hán

- Nhà Lương đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, bóc lột nhân dân ta.
- Quan lại đô hộ tàn bạo, hà hiếp nhân dân.
- Thu nhỏ các đơn vị hành chính để dễ bề kiểm soát.
- Chỉ sử dụng tôn thất, người phương Bắc giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy cai trị.

Chính sách cai trị của nhà Lương đối với Giao Châu vô cùng tàn bạo, lòng dân oán hận. Đây là nguyên nhân dẫn tới các cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống lại ách đô hộ của nhà Lương.

Tham khảo:
Quá trình hình thành và phát triển tỉnh Quảng Ninh
Tiền sử Quảng Ninh được biết sớm nhất là ở các địa điểm thuộc Văn hóa Soi Nhụ. Vào thời kỳ của các văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, khoảng 18.000 năm về trước, lúc băng hà lần cuối cùng phát triển, mực nước biển Đông hạ thấp tới độ sâu 110 -120 mét dưới mực nước biển hiện tại. Lúc đó vịnh Bắc Bộ, trong đó có vịnh Hạ Long là một đồng bằng tam giác châu rộng lớn. Trên vùng đất khoảng vài nghìn km2 của Quảng Ninh và khu vực Vịnh Hạ Long bây giờ là một đồng bằng cổ. Ở đây đã tồn tại một cộng đồng cư dân tiền sử lớn. Họ sống trong các hang động đá vôi, trên một địa bàn độc lập so với các cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn cùng thời đã sáng tạo ra một nền văn hóa song song tồn tại với các văn hóa Hòa Binh và Bắc Sơn, đó là nền Văn hóa Soi Nhụ, làm cơ sở để sau đó hình thành các loại hình văn hóa tiến bộ mới tại Cái Bèo, tiếp theo nền Văn hóa Hạ Long nổi tiếng.
Mặc dù các nhà khoa học gặp nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, song với khối tư liệu thu được sau cuộc khai quật di chỉ Đầu Rằm, có thể nói rằng từ tiền sử tới sơ sử Quảng Ninh là một quá trình phát triển liên tục, không hề có bất cứ một đứt đoạn nào. Việc phát hiện các di tích sơ sử tại Quảng Ninh cũng đã góp phần khẳng định rằng vào thời Hùng Vương, Quảng Ninh đã thực sự là một bộ phận của quốc gia Văn Lang.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, ngay từ thời Hùng Vương, đất nước ta đã được chia thành 15 bộ, trong đó có các bộ Ninh Hải, Lục Hải. Tất nhiên địa bàn của bộ Ninh Hải, Lục Hải thời đó không hoàn toàn trùng với địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, ngoài Quảng Ninh thì tối thiểu hai bộ đó còn bao gồm một phần Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và một phần Lưỡng Quảng (bao gồm một phần của 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc) ngày nay, nhưng trung tâm của Ninh Hải, Lục Hải chính là khu vực tỉnh Quảng Ninh bây giờ.
Lịch sử Ninh Hải - Lục Châu và sau này là Hải Đông là cả một thời kỳ dài liên tục đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng, phát triển. Trong thời phong kiến độc lập, tự chủ, có lẽ rất hiếm có một vùng đất nào mà hai nhiệm vụ, cũng là hai sự nghiệp ấy lại thể hiện rõ ràng như trên mảnh đất địa đầu Tổ quốc này. Trong suốt mười thế kỷ ấy, đất Hải Đông đã ghi dấu những chiến công lừng lẫy nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, với ba lần chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Không những thế, miền đất này cũng đã từng chứng kiến những công cuộc phát triển kinh tế phồn vinh nhất dưới thời phong kiến, đặc biệt với thương cảng Vân Đồn lịch sử.
Hải Đông không chỉ là một chiến trường hào hùng, nó cũng không chỉ là một khu vực phát triển kinh tế đầy sôi động mà còn là một trong những cái nôi văn hóa thời phong kiến độc lập, tự chủ ở nước ta. Với Yên Tử non thiêng, Hải Đông đã trở thành một trong những trung tâm văn hóa quan trọng nhất, thâm trầm nhất trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc.
Sử liệu về thời Lý - Trần còn lại quá ít ỏi, không cho phép chúng ta hiểu đầy đủ về quá trình biến đổi của đất Hải Đông. Tuy nhiên, về đại thể có thể biết được là năm 1023, sau khi dẹp yên cuộc nổi dậy của người Đại Nguyên Lịch (tên một dân tộc thiểu số ở vùng biển Việt Trung), nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vinh An, xác định biên giới đông bắc của Đại Việt. Ít lâu sau, cả vùng Ninh Hải - Lục Châu cũ được đặt thành một phủ: phủ Hải Đông. Khoảng năm 1242, nhà Trần nâng Hải Đông lên thành lộ và đến cuối thế kỷ XIV thì đổi gọi là An Bang. Đông Triều bấy giờ còn là một châu của lộ Hải Dương.
Cùng với sự phát triển của đất nước, cư dân An Bang cũng ngày càng tăng, ruộng đất làng xóm được mở rộng, các đơn vị hành chính như huyện Hoa Phong, Hoành Bồ, Yên Hưng, Đông Triều, các châu Tiên Yên, Vĩnh An, Vân Đồn, Vạn Ninh đã được hình thành. Tổ tiên nhà Trần, vào cuối đời Lý đã đến ở vùng An Sinh (thuộc Đông Triều) làm nghề đánh cá. Sau này khu vực An Phụ, An Dưỡng, An Sinh và An Bang được đặt thành thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu, anh của Trần Thái Tông. Nhà Trần tuy phát tích ở đất Thiên Trường (Nam Định) song vẫn nhớ về quê gốc Đông Triều nên lăng mộ các vua Trần đều được di dời về đây. Vùng thái ấp này biến thành khu mộ các vua nhà Trần.
Vào đời Lê Anh Tông (1556 - 1573) vì kỵ húy nhà vua đổi gọi An Bang thành An Quảng. Đến thời nhà Tây Sơn, các trấn từ Sơn Nam Hạ và Bắc được đổi gọi là Bắc Thành. Phủ Kinh Môn với 7 huyện, trong đó có cả Đông Triều đã được sáp nhập vào An Quảng. Lúc này An Quảng trở thành một trấn lớn.
Sau 24 năm chinh chiến với nhà Tây Sơn, đến ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Ánh đã thu phục được Kinh đô Phú Xuân và năm 1802 chính thức lên ngôi Hoàng đế. An Quảng được giữ nguyên là một ngoại trấn, với một phủ Hải Đông, ba huyện Hoành Bồ, Yên Quảng, Hoa Phong và ba châu Vạn Ninh, Tiên Yên và Vân Đồn.
Năm Minh Mạng thứ ba, trấn An Quảng được đổi tên thành trấn Quảng Yên. Đến năm 1831, trấn Quảng Yên được đổi thành tỉnh do Tổng đốc Hải An (Hải Dương - An Quảng) kiêm quản. Năm 1836, phủ Hải Đông được đổi tên gọi là phủ Hải Ninh, châu Vân Đồn được gộp vào huyện Hoa Phong và được gọi là tổng Vân Hải. Sau đó, nhà Nguyễn tách huyện Hoành Bồ, huyện Hoa Phong và huyện Yên Hưng ra khỏi phủ Hải Đông lập thành phủ Sơn Định, cho tri huyện Hoành Bồ kiêm quản.
Vào đầu thế kỷ XIX, do ít nhiểu tiếp xúc với tư bản phương Tây và nền kinh tế của họ nên nghề khai mỏ đã được nhà nước chú ý hơn. Theo sách Đại Nam thực lục chính biên thì dưới thời Minh Mạng (1820 - 1840), người ta đã bắt đầu khai thác than đá tại Đông Triều. Tháng 12 năm 1839, năm Minh Mạng thứ 20, Tổng đốc Hải An là Tôn Thất Bật đã dâng sớ xin thuê dân phu khai thác than đá tại núi An Lãng (xã Yên Thọ, huyện Đông Triều) và được Minh Mạng đồng ý. Như vậy là mãi cho đến năm 1839 thì nhà nước mới đứng ra khai thác than đá theo quy mô lớn, nhưng từ trưóc dó, nhân dân cùng đã biết lấy than đá.
Có thể nói, gói trọn một thiên niên kỷ dưới các triều đại phong kiến độc lập, lịch sử của mảnh đất Quảng Ninh cũng chính là lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước hào hùng của cha ông ta. Những thử thách gay go nhất, khốc liệt nhất đối với bản lĩnh của dân tộc đều diễn ra trên mảnh đất này. Những chiến công vang dội nhất cũng đã từng được mảnh đất và con người Quảng Ninh chia sẻ. Không những thế, mảnh đất này còn đóng vai trò là một động lực, một trung tâm phát triển mọi mặt của đất nước khi thanh bình. Đến khi quốc gia phong kiến độc lập không trụ nổi trước sức mạnh xâm lược của tư bản phương Tây, Việt Nam trở thành một thuộc địa dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, thì vùng đất Đông Bắc giàu tài nguyên than đá này lại trở thành một vùng điển hình của tội ác khai thác thuộc địa. Nhưng từ nỗi thống khổ bị áp bức và bóc lột, vùng đất này đã kế tục mạnh mẽ truyền thống yêu nước, truyền thống bất khuất kiên cường của mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đã viết nên những chương sử mới. Đó là thời kỳ Vùng Mỏ trở thành cái nôi sinh thành đội ngũ công nhân và những trang đấu tranh oanh liệt lại bắt đầu.
Sự kiện thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng năm 1858 đã mở đầu một trang sử mới trên đất nước ta. Đúng 25 năm sau, vào ngày 12-3-1883, sau khi đánh chiếm xong Hà Nội, 500 lính Pháp do đích thân Henri Rivière - tên tổng chỉ huy cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai cầm đầu - đã tiến hành đánh chiếm khu mỏ Quảng Ninh. Kể từ đó, Quảng Ninh đã cùng toàn thể dân tộc ta chịu chung ách thống trị dã man của thực dân Pháp. Nhưng cũng chính sự xâm lăng, ách thống trị và bóc lột tàn bạo của bọn chúng đã làm bùng lên ngọn lửa căm thù, đã thức tỉnh truyền thống yêu nước kiên cường bất khuất đấu tranh chống xâm lược của toàn thể dân tộc ta nói chung và của ngưòi dân Quảng Ninh nói riêng. Chính chúng “cùng góp phần" biến Quảng Ninh trở thành cái nôi của giai cấp công nhân Việt Nam, trở thành trường rèn luyện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giác ngộ ý thức giai cấp cho giai cấp công nhân Việt Nam - một giai cấp duy nhất trong thời đại mới có thể tập hợp được lực lượng của toàn thể dân tộc, có thể phát huy được truyền thống bất khuất hàng ngàn năm của cha ông, đứng lên đấu tranh chống đế quốc, phát xít xâm lược và đủ loại tay chân của chúng cho đến thắng lợi cuối cùng.
Trong giai đoạn từ 1885 đến những năm đầu thế kỷ XX, các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp đã liên tiếp và rầm rộ nổi lên tại vùng Đông Bắc nước ta. Có khi trên một địa bàn như đảo Cái Bầu, đảo Cái Bàn, vùng rừng núi huyện Đông Triều có tới hai, ba cuộc nổi dậy một lúc, có cuộc kéo dài gần chục năm trời. Nhìn chung, phong trào chống Pháp tại vùng đất Quảng Ninh trong thời kỳ này là một phong trào dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc dưới ngọn cờ yêu nước. Hoàn toàn trái với các tính toán của thực dân Pháp, trong quá trình xâm lược và bước đầu khai thác của chúng, tầng lớp công nhân mỏ Quảng Ninh tiền bối đã nảy sinh và ngày càng lớn lên. Vốn xuất thân từ những người nông dân có truyền thống dân tộc lâu đời, mang trong lòng ngọn lửa căm thù sôi sục đối với quân xâm lược Pháp, cũng chính là bọn thực dân đang áp bức, đọa đày họ trong nhà máy, hầm mỏ, người thợ mỏ Quảng Ninh ngay trong giai đoạn đầu đã rất nhạy bén với vấn đề dân tộc, sẵn sàng và tự nguyện tham gia vào các cuộc khởi nghĩa chung của dân tộc. Dần dần cùng với sự phát triển về số lượng, thông qua cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, người thợ mỏ Quảng Ninh cũng ngày càng trưởng thành vể chất lượng, sớm đi đến chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở đó “cẩm nang thần kỳ" trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
Quá trình đẩy mạnh khai thác của tư bản Pháp tại Quảng Ninh đã dẫn tới sự phân hóa sâu sắc xã hội, làm cho khu mỏ trở thành nơi phân chia rõ ràng giữa hai tầng lớp thống trị - bọn chủ mỏ thực dân và bè lũ tay sai của chúng với tầng lớp bị trị - đó là đội ngũ công nhân mỏ và đồng bào các dân tộc trên đất Quảng Ninh. Song song với quá trình phân hóa ấy là sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân mỏ Quảng Ninh. Đó chính...

Từ thời nguyên thủy cho đến năm 938, cư dân Quảng Ninh có những đặc điểm kinh tế xã hội sau:
-
Kinh tế: Cư dân Quảng Ninh chủ yếu sống bằng nghề săn bắt, đánh cá, thu thập và chăn nuôi. Họ sử dụng các công cụ làm từ đá, gỗ và xương để sản xuất và chế tạo. Ngoài ra, cư dân cũng có sự phát triển về nghề trồng trọt và chế biến nông sản.
-
Xã hội: Cư dân Quảng Ninh sống theo hình thức chủng tộc và tộc ngữ, tổ chức thành các cộng đồng nhỏ. Họ sống trong các làng và thường có hệ thống phân công công việc theo từng gia đình hoặc theo từng nhóm nghề. Các quyền lợi và trách nhiệm xã hội được quy định bởi các quy tắc và phong tục truyền thống của cộng đồng.
-
Văn hóa: Cư dân Quảng Ninh có nền văn hóa phong phú và đa dạng, được thể hiện qua các nghệ thuật dân gian như hát ru, múa lân, múa sạp, và truyền thuyết dân gian. Họ cũng có các nghi lễ và tín ngưỡng tôn giáo đặc trưng, thường liên quan đến việc tôn vinh thiên nhiên và tổ tiên.
-
Quan hệ với các vùng lân cận: Cư dân Quảng Ninh có mối quan hệ thương mại và giao lưu văn hóa với các vùng lân cận, như Trung Quốc, các vùng miền núi phía Bắc và các đồng bằng sông Hồng. Đây là cơ sở để hình thành và phát triển các mối quan hệ chính trị và kinh tế trong tương lai.

1. Nhận xét: Chính sách nặng nề, tàn bạo, đẩy nhân dân ta vào đường cùng.
Chính sách "đồng hóa" thâm độc nhất
2. Để lại cho chúng ta:
- Tổ quốc
- Những phong tục tập quán: búi tóc, xăm mình,...
- Những tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thần tự nhiên,...
Giữ được: búi tóc, xăm mình, ăn trầu, làm bánh chưng, nhộm răng đen,...
Ý nghĩa: Cho thấy người Việt không bị đồng hóa và phpng trào giành độc lập vẫn diễn ra.