K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

15 tháng 3 2017

truyện ngắn đã có lịch sử phát triển lâu dài. Tuy nhiên, truyện ngắn mang dấu hiệu hiện đại chỉ thực sự ra đời ở đầu thế kỉ XX, gắn với sự xuất hiện, nở rộ của báo chí và các hoạt động xuất bản . Lâu nay, dấu hiệu hiện đại của truyện ngắn giai đoạn đầu thế kỷ XX chủ yếu được phân tích qua những phương diện: chủ đề tư tưởng, nhân vật, ngôn ngữ… trong khi nghệ thuật trần thuật nói chung, nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu nói riêng – những yếu tố quan trọng tạo nên sự biến đổi theo hướng hiện đại của truyện ngắn đầu thế kỷ XX chưa được quan tâm khảo sát một cách toàn diện. Khi xem xét truyện ngắn đầu thế kỷ XX, có thể nhận thấy đặc điểm lớn của nó là sự đan xen cũ - mới trong nghệ thuật trần thuật mà cốt truyện - kết cấu là những phương diện thể hiện rất rõ điều đó. I. Trước hết, xin đề cập tới phương diện cốt truyện của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Khảo sát ba loại cốt truyện tiêu biểu của truyện ngắn đầu thế kỷ XX: cốt truyện luận đề, cốt truyện có các sự kiện mang tính kịch cao, cốt truyện tâm lý, chúng tôi thấy cốt truyện của truyện ngắn đầu thế kỉ XX một mặt vẫn mang một số đặc điểm của truyện ngắn trung đại, mặt khác đã bước đầu bộc lộ những dấu hiệu hiện đại, mới mẻ đáng ghi nhận. 1. Cốt truyện luận đề Qua khảo sát truyện ngắn luận đề đầu thế kỷ XX như các truyện: Chân tướng quân, Tráng sĩ Cao Thắng, Tước Thái thiền sư của Phan Bội Châu, Một nhà bác học, Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học; Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn của Nguyễn Chánh Sắc, Một cánh hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ, Bác nghiện của Vũ Miễn Nam, Trên lầm dưới lỗi của Trần Quảng Nghiệp và nhiều truyện khác, chúng tôi thấy những truyện trên do chỉ chú trọng miêu tả sự kiện để hướng tới một khái quát mang tính luận đề, tác giả có xu hướng nói thay nhân vật nên nhân vật bị lu mờ, khô cứng hoặc hầu như không có tính cách.Ví như trong Câu chuyện gia tình của Nguyễn Bá Học, nhân vật bà già được miêu tả với những hành động, lời nói không phù hợp với hoàn cảnh xuất thân của con người bà - một bà mẹ chân quê nhưng lại có thể nói những lời của bậc túc nho. Nhân vật bà già được miêu tả một cách tóm lược và bị biến thành cái loa phát ngôn cho những quan niệm, những thuyết lý đạo đức truyền thống của tác giả. Đây là hiện tượng ảnh hưởng thi pháp truyện ngắn trung đại còn có ở truyện ngắn đầu thế kỷ XX đặc biệt ở các truyện ngắn của thế hệ các tác giả Nho học lúc bấy giờ. Nhưng bên cạnh đó, một số tác phẩm có cốt truyện luận đề đầu thế kỷ XX như truyện Tước Thái thiền sư, Dư sinh lịch hiểm ký… đã bước đầu bộc lộ những dấu hiệu hiện đại, tính cách nhân vật đã có sự vận động, phát triển rõ nét qua nhiều thử thách. Đây là điều chưa được đặt thành vấn đề trọng tâm ở các tập truyện ngắn trung đại. Một dấu hiệu hiện đại nữa trong cốt truyện luận đề đầu thế kỷ XX là nếu cốt truyện luận đề trong văn học trung đại thường cài đặt nhiều chi tiết ly kỳ, sản phẩm của quá trình thần thánh hoá, truyền thuyết hoá theo quan điểm dân gian, tín ngưỡng dân gian thì cốt truyện luận đề của truyện ngắn đầu thế kỷ XX không đi theo hướng đó. Hướng tới tính xác thực của chi tiết, lập luận lôgíc, biện chứng, các truyện ngắn luận đề đầu thế kỷ XX đã có sức thuyết phục và gây ấn tượng nhất định với bạn đọc. Tất nhiên, vì ở vào giai đoạn giao thời nên dấu hiệu hiện đại của kiểu cốt truyện này trong truyện ngắn đầu thế kỷ XX chưa thật sáng rõ. Cốt truyện luận đề của truyện ngắn 1900 - 1932 chưa đạt tới độ nhuần nhị, in sâu vào trí nhớ người đọc với những triết lý sâu lắng như trong các truyện mang tính luận đề của Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu . sau này. Thêm vào đó, trong những truyện ngắn có tính luận đề đầu thế kỷ XX, chưa thấy có những nhân vật có tính cách trọn vẹn, đầy đặn với số phận, cuộc đời nhiều chông gai, nhiều “tì vết” kiểu như những Điền, Hộ trong truyện của Nam Cao, những cô Đào, cô Tấm trong truyện của Nguyễn Khải sau này mà nhân vật của giai đoạn đầu thế kỷ XX thường chỉ hiện lên như một phương diện nào đó của tính cách. Dẫu sao, những dấu hiệu hiện đại của nó cũng đáng được ghi nhận cho buổi đầu hiện đại hoá văn xuôi tự sự Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 2. Cốt truyện có các sự kiện mang tính kịch cao Theo quan niệm truyền thống, truyện phải có những phần lắt léo, những sự kiện mang tính kịch, kết thúc bất ngờ làm mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tiền đề cho những truyện có các sự kiện mang tính kịch cao. Nhưng trong quá trình phát triển, loại cốt truyện này cũng có sự biến đổi. Văn xuôi tự sự trung đại thường chỉ chú trọng đến hành động, sự kiện với những nội dung cốt yếu mà không phát triển dông dài, không có yếu tố thừa như ở tiểu thuyết và truyện ngắn hiện đại. Có cảm giác tác giả chỉ quan tâm đến sự kiện mà ít lưu ý tới miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật. Đến đầu thế kỉ XX đã bắt đầu xuất hiện những truyện mà số phận, tính cách nhân vật được tập trung khắc hoạ qua những sự kiện, biến cố và qua diễn biến nội tâm. Có thể thấy rõ điều này qua các truyện như: Câu chuyện nhà sư của Nguyễn Bá Học, Tái sinh sinh, Sùng bái giai nhân của Phan Bội Châu . Tái sinh sinh của Phan Bội Châu là một truyện có cốt truyện hấp dẫn. Truyện kể về nhà cách mạng Lệ Mai Tử bị bắt giam vào ngục tối. Lệ Mai Tử đã cùng người học trò của mình lập mưu giả chết để vượt ngục, ra với trời tự do và trở lại cuộc đời hoạt động cách mạng. Truyện Con rùa của Nguyễn Ái Quốc cũng là một tác phẩm có cốt truyện căng thẳng đầy kịch tính với một kết thúc bi hài. Tất nhiên, bên cạnh những tác phẩm như trên còn nhiều tác phẩm có cốt truyện kiểu này nhưng sơ sài, kém hấp dẫn, nặng về thuyết lý như Tráng sĩ Cao Thắng của Phan Bội Châu, Một cánh hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ, Bác nghiện của Vũ Miễn Nam . Do chưa khắc họa được những tính cách sống động, nhân vật dường như được xây dựng chỉ để minh họa cho các luận đề tư tưởng của truyện, vì thế mà truyện kém hấp dẫn, nhân vật chỉ là những hình bóng mờ nhạt hoặc cứng nhắc. Ở khoảng mười năm cuối của giai đoạn 1900 - 1930 đã có nhiều truyện ngắn mà các sự kiện trong truyện diễn ra không trùng khớp với thứ tự diễn tiến như trong cốt truyện truyền thống. Những truyện kiểu này thường bắt đầu bằng tính huống có tính cao trào để từ đó mà xoáy sâu vào phản ánh một số hình tượng nhất định, ứng với nó là kiểu kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian như Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn và một số truyện khác của Nguyễn Công Hoan như Oẳn tà roằn, Ngựa người và người ngựa, Răng con chó nhà tư bản, Hai thằng khốn nạn Những truyện này sẽ tạo cho người đọc những ấn tượng nghệ thuật mới mẻ. Ở truyện Sống chết mặc bay, mở đầu đã là cảnh đối lập mang tính cao trào: hình ảnh hàng ngàn sinh linh đang náo loạn trước nguy cơ đê vỡ - một sự kiện có tính đe dọa tới sự sống còn của bao người và cảnh nhân vật quan phụ mẫu vẫn “uy nghi, chễm chệ ngồi .”, ngài vẫn “ù thông tôm, chi chi nẩy, điếu mày!” .Kịch tính cứ được đẩy lên mãi, để rồi kết thúc truyện, người đọc thực sự phẫn nộ trước sự vô lương tâm, vô trách nhiệm và mất hết lương tri của tên quan phụ mẫu đối với mạng sống của bao người dân nghèo khổ. Cũng như vậy, ở truyện Răng con chó nhà tư bản của Nguyễn Công Hoan, tình huống kịch tính của truyện lại đặt vào cuối tác phẩm sau việc người ăn mày vì giành đĩa thức ăn của con chó mà đấm gãy hai chiếc răng của nó. Tên nhà giàu “nghiến răng, nhảy tót lên ô tô nổ máy xình xịch, bật đèn pha lên”, với quyết tâm “ông kẹp cho mày chết tươi rồi ông đền mạng. Bất quá ba chục là cùng!”. Không cần phải nhiều lời bình luận, bản thân hành động ấy đã cho thấy nhà tư bản kia hoàn toàn là một con ác thú, phi nhân tính. Với sự đổi mới trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện như trên, có thể thấy truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX đã có những bước đổi dòng đáng ghi nhận, từ những cốt truyện kịch tính kiểu truyền thống, truyện ngắn đầu thế kỉ XX đã học tập, sáng tạo những cốt truyện kịch tính kiểu văn học phương Tây – vốn là điều mới mẻ với văn học Việt Nam lúc bấy giờ. 3. Cốt truyện tâm lý Trong truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX có một loại cốt truyện hầu như chưa thấy xuất hiện trong văn học trung đại, đó là những truyện không có cốt truyện - còn gọi là cốt truyện tâm lý như Trằn trọc đêm xuân của Mân Châu, Giấc mộng của Công Bình, Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, Tuyết Nga của Tùng Toàn, À! Chiêm bao của Nguyễn Bá Học . Truyện ngắn Tuyết Nga của Tùng Toàn là một truyện không có cốt truyện. Mâu thuẫn truyện không phải là những mâu thuẫn xã hội mà là mâu thuẫn trong nội tâm nhân vật Thanh Hà: mâu thuẫn giữa việc muốn cưới được người đẹp Tuyết Nga - một mẫu hình người con gái nết na, đoan chính và có học thức với việc giữ được tình huynh đệ với Băng Hồ - người mà Tuyết Nga yêu, mâu thuẫn giữa việc được làm chủ sắc đẹp Tuyết Nga với việc giữ được cốt cách người quân tử. Trọng tâm truyện Tuyết Nga đã chuyển từ sự kiện sang nhân vật, từ những điều trông thấy sang những điều cảm thấy, đó là những xung đột nội tâm trong lòng Thanh Hà để cuối cùng chọn một giải pháp thoả đáng nhất cho tình yêu của mình. Nếu ở truyện ngắn trung đại, các sự kiện luôn giữ vai trò chính yếu thì đến đầu thế kỉ XX đã xuất hiện những truyện mà sự kiện trở nên mờ nhạt, ý nghĩa truyện nhiều khi không còn nằm ở cốt truyện mà nằm ở cách kể, cách sử dụng các chi tiết truyện để miêu tả nội tâm, miêu tả thế giới cảm giác của con người về cuộc sống. Như ở truyện Giọt lệ hồng lâu của Hoàng Ngọc Phách, hầu như không có biến cố hay sự kiện gì đáng kể, chỉ có dòng tâm trạng của cô gái lầu xanh với bao nỗi sầu thương lan tràn trên những trang giấy. Có thể khẳng định với sự xuất hiện của kiểu truyện không có cốt truyện này, những dòng cảm xúc, nội tâm của con người - những vui buồn, hờn giận, ghen tuông, sầu tủi, nhớ mong, hạnh phúc . của con người đã được trải rộng ra trên những trang giấy. Nếu chỉ có kiểu truyện truyền thống nặng về các sự kiện xã hội thì chắc những dòng nội tâm đó không được giãi bày nhiều như thế. Tuy nhiên, trong buổi đầu sinh thành, kiểu truyện không có cốt truyện đầu thế kỉ XX vẫn chỉ là những thử nghiệm. Nhìn chung, những truyện ngắn không có cốt truyện của giai đoạn này còn tạo cảm giác lan ma...

15 tháng 3 2017

Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu truyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất củanghệ thuật truyện ngắn.

Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Trong khi đó, tiểu thuyết chứa được nhiều vấn đề, phủ sóng được một diện rộng lớn của đời sống. Do đó, truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian trong truyện ngắn cũng không trải dài như tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống. Ví dụ một truyện ngắn kể về Nhà chứa Tellier của Maupassant thời gian chỉ 24 giờ; Lời phán quyết của Kafka chỉ xảy ra trong vài tiếng. Trong khi cuốn tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất có thời gian cốt truyện khoảng 40 năm và đến tận ba nghìn trang. Tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình có tới trên 500 nhân vật.

Paul Bourget, nhà văn và nhà phê bình Pháp thế kỷ 20 có nhận định về hai thể loại trên, qua đó cũng giải thích phần nào về sự chênh lệnh số trang của chúng: "Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng".

Như vậy, thông thường tiểu thuyết phải dài hơn truyện ngắn. Song không phải bất cứ một tác phẩm dày nào cũng là tiểu thuyết. Một tác phẩm dài hay ngắn chỉ còn là tương đối để phân biệt. Phần quan trọng để được gọi là tiểu thuyết còn ở cấu trúc của nó.

​chúc p hk tốt

17 tháng 3 2021

Văn học trung đại

–  Sự ra đời và hình thành phát triển:

+ Từ thế kỉ X đến trước khi hình thành văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian

+ Đầu thế kỉ X đánh dấu sự ra đời của dòng văn học Việt Nam (văn học trung đại)

– Chủ đề chủ đạo của các tác phẩm văn học trung đại:

 + Từ thế kỉ X – XV: Nêu cao tinh thần yêu nước, sức mạnh dân tộc, ý chí độc lập và tinh thần tự chủ, tự cường

+ Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII: Tập trung phê phán, phản ánh xã hội

+ Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX: Tập trung phản ánh, phê phán xã hội và đề cao vai trò của con người.

+ Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: Phản ánh, phê phán những thói hư dởm đời.

Ví dụ: Các tác phẩm văn học trung đại tiêu biểu Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà,…

b) Văn học hiện đại

– Thời gian tư tưởng chủ đạo: Văn học hiện đại kéo dài từ 1945 đến 1975 chia làm 3 giai đoạn:

+ 1945 – 1954: trong giai đoạn này tư tưởng chủ đạo hướng về cuộc kháng chiến chống pháp ( Làng- Kim Lân)

+ 1954 – 1964: Cách nhìn mới về một cuộc sống mới, hướng đến tương lai tươi sáng

+ 1964 – 1975: Những tác phẩm tiêu biểu như : Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long ⇒ Hướng đến những con người cao đẹp với những phẩm chất tốt đẹp trong xã hội.

+ Sau 1975: Nổi bật với tác phẩm bến quê – Nguyễn Minh Châu.

17 tháng 3 2021

Văn học trung đại

–  Sự ra đời và hình thành phát triển:

+ Từ thế kỉ X đến trước khi hình thành văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian

+ Đầu thế kỉ X đánh dấu sự ra đời của dòng văn học Việt Nam (văn học trung đại)

– Chủ đề chủ đạo của các tác phẩm văn học trung đại:

 + Từ thế kỉ X – XV: Nêu cao tinh thần yêu nước, sức mạnh dân tộc, ý chí độc lập và tinh thần tự chủ, tự cường

+ Từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII: Tập trung phê phán, phản ánh xã hội

+ Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX: Tập trung phản ánh, phê phán xã hội và đề cao vai trò của con người.

+ Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: Phản ánh, phê phán những thói hư dởm đời.

Ví dụ: Các tác phẩm văn học trung đại tiêu biểu Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà,…

b) Văn học hiện đại

– Thời gian tư tưởng chủ đạo: Văn học hiện đại kéo dài từ 1945 đến 1975 chia làm 3 giai đoạn:

+ 1945 – 1954: trong giai đoạn này tư tưởng chủ đạo hướng về cuộc kháng chiến chống pháp ( Làng- Kim Lân)

+ 1954 – 1964: Cách nhìn mới về một cuộc sống mới, hướng đến tương lai tươi sáng

+ 1964 – 1975: Những tác phẩm tiêu biểu như : Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng, Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long ⇒ Hướng đến những con người cao đẹp với những phẩm chất tốt đẹp trong xã hội.

+ Sau 1975: Nổi bật với tác phẩm bến quê – Nguyễn Minh Châu.

20 tháng 4 2017

Sống chết mặc bay là một tác phẩm của nhà văn Phạm Duy Tốn, được viết theo thể truyện ngắn hiện đại và đăng trên tạp chí Nam Phong số 8 tháng 12 năm 1918. Đây là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của ông.

Văn bản "Sống chết mặc bay" là 1 đề tài được lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên. Đồng thời, "Sống chết mặc bay" cũng để thể hiện sự bất công trong xã hội hiện đại của Việt Nam ở thế kỷ 20

Cụm từ sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi được dùng để chỉ những người vô trách nhiệm chỉ biết hưởng lợi, không quan tâm đến người khác.

20 tháng 4 2017

sai rồi bà nội

5 tháng 10 2023

Chọn C. Vì giúp người đọc dễ hình dung ra loại phương tiện đang được giới thiệu

Chỉ ra những đặc điểm của văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn học trong Sức hấp dẫn của truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” và nêu tác dụng của các đặc điểm ấy trong việc thực hiện mục đích văn bản bằng cách hoàn thành bảng sau: Đặc điểm của văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn họcBiểu hiện trong văn bản Sức hấp dẫn của truyện “Chiếc lá cuối...
Đọc tiếp

Chỉ ra những đặc điểm của văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn học trong Sức hấp dẫn của truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” và nêu tác dụng của các đặc điểm ấy trong việc thực hiện mục đích văn bản bằng cách hoàn thành bảng sau: 

Đặc điểm của văn bản nghị luận phân tích một tác phẩm văn học

Biểu hiện trong văn bản Sức hấp dẫn của truyện “Chiếc lá cuối cùng”

Tác dụng trong việc thực hiện mục đích văn bản

Thể hiện rõ ý kiến của người viết về tác phẩm cần bàn luận. 

 

 

Đưa ra lí lẽ là những lí giải, phân tích tác phẩm. 

 

 

Bằng chứng được dẫn ra từ tác phẩm để làm rõ cho lí lẽ

 

 

Ý kiến, lí lẽ, bằng chứng được sắp xếp theo trình tự hợp lí. 

 

 
1
HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
3 tháng 1 2024

30 tháng 3 2016

văn 7 ko có học,văn 8 à

30 tháng 3 2016

TỨC NƯỚC VỠ BỜ(NGÔ TẤT TỐ)

LÃO HẠC(NAM CAO)

14 tháng 4 2020

1)Truyện ngắn hiện đại đ­ợc viết bằng tiếng Việt hiện đại, là sản phẩm của 1 kiểu t­ duy NT mới, xuất hiện tư­ơng đối muộn trong lịch sử văn học (đầu TK XX). So với truyện trung đại, cốt truyện phức tạp hơn, đã thiên về tính chất h­ cấu đã hư­ớng vào việc khắc họa hình t­ợng, phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con ng­ời. Truyện trung đại đư­ợc viết bằng tiếng Hán, cốt truyện đơn giản còn thiên về mục đích giáo huấn.

2)

-Phạm Duy Tốn (1883-1924), quê Th­ờng Tín, Hà Tây.

- Ông là 1 cây bút tiên phong và xuất sắc của khuynh h­ớng hiện thực ở những năm đầu TK XX.

- Truyện ngắn của ông chuyên về phản ánh hiện thực XH.

3)

- Sáng tác 7.1918.

- Thể loại: truyện ngắn hiện đại.

5)Gần một giờ đêm, trời mưa như trút nước khiến cho nước sông Nhị Hà dâng lên nhanh, khúc đê làng X phủ X có nguy cơ vỡ. Trong khi hàng trăm phu phen, con dân đang oằn mình chống lũ, huy động của cải sức người để bảo vệ đê, thì ở ngôi đình cao ráo, vững chãi cách đó không xa, tên quan phụ mẫu với trách nhiệm giúp dân hộ đê đang ngồi đó đánh bài với lũ sai nha. Hắn đi hộ đê mà mang theo biết bao vật dụng quý hiếm, đồ ăn ngon. Mặc cho có người báo đê vỡ, hắn vẫn vô cảm, điềm nhiên say sưa với ván bài, thậm chí còn quát mắng, đòi bỏ tù người vào bẩm báo. Đúng lúc quan ù to ván bài cũng là lúc đê vỡ, nước tràn khắp nơi cuốn trôi nhà cửa, của cải, "kẻ sống không nơi ở, kẻ chết không nơi chôn".

14 tháng 4 2020

Tác giả Phạm Duy Tốn

a. Cuộc đời

- Nguyên quán làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).

- Sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội).

b. Sự nghiệp văn chương

- Là nhà văn, nhà báo nổi tiếng đầu thế kỉ XX.

- Sự nghiệp chính là viết báo.

- Toàn bộ văn nghiệp để lại 4 truyện ngắn nhưng vẫn được đánh giá là một nhà văn có vị trí mở đầu cho xu hướng hiện đại, thoát ra khỏi khuôn khổ truyện ngắn trung đại trong thời kì đầu hiện đại hóa.

Đọc và tìm hiểu văn bản: “SỐNG CHẾT MẶC BAY”của Phạm Duy Tốn (HS xem SGK trang 74-83) Câu 1: Hãy nêu đặc điểm cơ bản của truyện ngắn hiện đại? (Gợi ý:có thể tham khảo các tài liệu liên quan hoặc oogle,...). Câu 2: Hãy giới thiệu vài nét về nhà văn Phạm Duy Tốn ? ( Gợi ý: xem chú thích * SGK) Câu 3:Em hãy cho biết đôi nét về văn bản“Sống chết mặc bay”? ( Gợi ý: trích ở đâu? Đây...
Đọc tiếp

Đọc và tìm hiểu văn bản: “SỐNG CHẾT MẶC BAY”của Phạm Duy Tốn (HS xem SGK trang 74-83)
Câu 1: Hãy nêu đặc điểm cơ bản của truyện ngắn hiện đại? (Gợi ý:có thể tham khảo các tài liệu liên quan hoặc oogle,...).
Câu 2: Hãy giới thiệu vài nét về nhà văn Phạm Duy Tốn ? ( Gợi ý: xem chú thích * SGK)
Câu 3:Em hãy cho biết đôi nét về văn bản“Sống chết mặc bay”? ( Gợi ý: trích ở đâu? Đây có phải là tác phẩm thành công nhất của tác giả không, là tác phẩm có vai trò thế nào đối với thể loại truyện ngắn hiện đại?)
Câu4: Tên truyện là “Sống chết mặc bay” khiến em liên tưởng đến thành ngữ nào ?Tên truyện như vậy có tác dụng như thế nào ?
Câu5: Tóm tắt văn bản “Sống chết mặc bay”.

1
14 tháng 4 2020

câu 1,2,3 có gợi ý rồi mình ko làm nữa

câu 4: Tên truyện khiến em liên tưởng đến câu thành ngữ:Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi

câu 5: Tóm tắt:

Gần một giờ đêm, trời mưa như trút nước khiến cho nước sông Nhị Hà dâng lên nhanh, khúc đê làng X phủ X có nguy cơ vỡ. Trong khi hàng trăm phu phen, con dân đang oằn mình chống lũ, huy động của cải sức người để bảo vệ đê, thì ở ngôi đình cao ráo, vững chãi cách đó không xa, tên quan phụ mẫu với trách nhiệm giúp dân hộ đê đang ngồi đó đánh bài với lũ sai nha. Hắn đi hộ đê mà mang theo biết bao vật dụng quý hiếm, đồ ăn ngon. Mặc cho có người báo đê vỡ, hắn vẫn vô cảm, điềm nhiên say sưa với ván bài, thậm chí còn quát mắng, đòi bỏ tù người vào bẩm báo. Đúng lúc quan ù to ván bài cũng là lúc đê vỡ, nước tràn khắp nơi cuốn trôi nhà cửa, của cải, "kẻ sống không nơi ở, kẻ chết không nơi chôn".

bạn có thể xem thêm nhiều kiểu tại:https://vndoc.com/tom-tat-tac-pham-song-chet-mac-bay-pham-duy-ton/download

tick cho mình nha

23 tháng 11 2016
Khi phố phường đỏ thắm màu hoa phượng cũng là lúc hè lại đến. Mùa hè đến mang theo biết bao niềm vui sướng của tuổi học trò, bởi hè cũng là lúc không còn phải ngồi miệt mài trên trường với những trang sách. Khi những chú ve bắt đầu kêu vang rộn ràng gợi lên biết bao kỷ niệm thân thương nhất.Tôi yêu cái nắng chói chang, oi bức, ngột ngạt hay những cơn mưa bất chợt của những buổi trưa hè. Tôi yêu những bản nhạc hoà tấu do nhạc sĩ ve sầu tạo nên giúp cho mọi người thư giãn. Tôi yêu từng cánh hoa phượng vĩ nở đỏ rực trên nền trời xanh tươi, tôi yêu sự vui chơi thoả thích mà không phải sợ những bài kiểm tra, không sợ bị những con điểm kém.Hè đến cũng là lúc lũ trẻ con ngồi tụm tập nghe bà kể chuyện, được chạy nhảy trên những cánh đồng lúa rộng mênh mông, đi mò cua bắt óc, tắm sông, đuổi bắt cào cào hay mãi mê với cánh diều tuổi thơ. Mỗi hè đến lũ trẻ thường trèo lên cây phượng hái từng bông hoa để ăn. Cảm giác có vị chát, vị mặn một chút chua nhưng lại khiến lũ trẻ vô cùng thích thú.