K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 9 2017

trong sách ấy

đừng hỏi những câu không liên quan đến toán
 

22 tháng 12 2018

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, giữa lúc phải tập trung chuẩn bị chiến dịch Thu Đông, nhằm đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp. Cuốn sách gồm có 6 phần: 1. Phê bình và sửa chữa; 2. Mấy điều kinh nghiệm; 3. Tư cách và đạo đức cách mạng; 4. Vấn đề cán bộ; 5. Cách lãnh đạo; 6. Chống thói ba hoa. Cho đến nay, những chỉ dạy của Bác vẫn được coi là kim chỉ nam cho cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình và trong cách ứng xử với Nhân dân và trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Bác Hồ viết: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm… Chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người".

Như vậy, tức là nhìn vào việc làm để đánh giá, nhận xét phải trung thực, thẳng thắn, không thêm, không bớt. Khi đánh giá, phải đánh giá cả ưu điểm, khuyết điểm, để người được đánh giá thấy yếu mà khắc phục, thấy mạnh mà cố gắng. Nếu chỉ phê bình mà không nhìn nhận những gì cán bộ, công chức làm được, thì bản thân họ dễ sinh buồn phiền, chán nản, ít nhiều làm họ nhụt ý chí phấn đấu.
Bác còn dạy “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt”. Đây là việc làm này phải thường xuyên, liên tục để bản thân có thể nhìn nhận được điểm yếu, điểm mạnh của mình, biết mình đang “đứng” ở đâu về chuyên môn, năng lực. Đánh giá trên thực tế, có một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự áp dụng lời dạy này như một cẩm nang để tự phấn đấu, không tự kiểm điểm, phê bình bản thân trước, mà chỉ đổ trách nhiệm và phê bình người khác, điều đó làm cán bộ, công chức không thể “trưởng thành” trong công việc.
Tổng kết thực tiễn trong hoạt động của cán bộ, đảng viên, Bác chỉ ra rằng, khi thực hiện bất kỳ nhiệm vụ gì cũng phải trả lời câu hỏi “Vì ai mà làm? Đối với ai phụ trách?". Cán bộ, công chức làm vì Nhân dân, do vậy phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Nhân dân có trình độ hiểu biết khác nhau, phải tìm đủ cách giải thích cho Nhân dân hiểu. Mọi việc làm phải hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Từ đó mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. chứ không được “đứng trên” mà làm theo cách hạ lệnh, cách cưỡng bức. Bác cũng chỉ ra, muốn thực hiện tốt nhiệm vụ thì phải sâu sát quần chúng, tránh bệnh hình thức, xa rời nhân dân.

Từ thực tiễn, Bác đã đúc kết “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Tổ chức thực hiện công việc thành hay không đều phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ. Người nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", chính là quan điểm về con người với vai trò vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy, đối với công việc, phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm công việc đã làm một cách tường tận, gốc rễ; tỉ mỉ, cẩn thận, toàn diện trước khi thực hiện công tác mới.

Người cũng nêu lên phận sự của người cán bộ, đảng viên là phải trọng lợi ích của Đảng hơn hết, phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đảng viên và cán bộ phải có “đạo đức cách mạng" là Nhân, Nghĩa, Chí, Dũng, Liêm.

Người chỉ rõ bổn phận của người đảng viên là suốt đời tranh đấu cho dân tộc, cho Tổ quốc; đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng; kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng; cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc; cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hóa. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.  

Bác cũng dạy cán bộ, công chức về cách nói, cách làm. Như đã nói ở trên, Người đã chỉ ra, làm việc gì cũng phải xác định “vì ai mà làm”. Theo đó, trong cách viết không nên dài dòng, rỗng tuếch, không có nội dung, nhưng cũng không dùng danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây để quần chúng không hiểu. Bác chỉ ra căn bệnh theo "sáo cũ", đó là làm việc thiếu chuẩn bị, nội dung mênh mông, không thiết thực, công thức máy móc, nói, viết những từ hoa mỹ, quần chúng không hiểu, không đem lại kết quả.

Cán bộ, công chức muốn Nhân dân hiểu, phải học cách nói của quần chúng, dùng những lời lẽ giản đơn, thiết thực, dễ hiểu. Khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được. Làm sao cho quần chúng đều hiểu, đều tin, đều quyết tâm làm theo lời kêu gọi của mình. Khi chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, thì chớ nói, chớ viết. Trước khi nói, phải nghĩ cho chín, phải sắp đặt cẩn thận.

Trước khi đi xa, trong Di chúc, Bác Hồ cũng không quên dặn lại một cách tâm huyết: Mỗi đảng viên, cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Nói theo Bác, người cán bộ công chức không có phận sự nào khác ngoài phận sự phục vụ nhân dân vì dân mà làm các việc.

Tư tưởng phục vụ nhân dân là tư tưởng cốt lõi trong đạo đức, nhân cách của Người.
Để nâng cao đạo đức, phẩm chất của người cán bộ, công chức, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần chống các căn bệnh như: xa rời thực tiễn của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là thái độ vô cảm, lạnh lùng thiếu trách nhiệm của người cán bộ công chức trước những yêu cầu của người dân; Bệnh quan liêu, hình thức, coi trọng thủ tục hơn hiệu quả cũng đang có nguy cơ lan rộng trong cán bộ công chức... Những lời dạy sâu sắc của Bác về đạo đức của người cán bộ công chức vẫn luôn là kim chỉ nam cho hành động của mỗi cán bộ, công chức sinh thời cũng như hiện tại.

22 tháng 12 2018

Cái gì không có lợi cho địch là có lợi cho ta”[1].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Mười khó khăn của Pháp” bút danh C.B, đăng trên Báo Nhân dân, số 27, ngày 01 tháng 10 năm 1951.

Chiến dịch Biên Giới năm 1950 kết thúc, ta giành thắng lợi lớn, diệt trên 8.000 quân địch thu nhiều vũ khí, trang bị, giải phóng vùng biên giới rộng lớn từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn) mở rộng giao lưu quốc tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành quyền chủ động chiến lược đẩy mạnh tiến công và phản công. Thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn ở chính quốc và trên chiến trường Đông Dương; nhưng vẫn tập trung tăng quân, thay tướng, xin thêm viện trợ của Mỹ, xây dựng hệ thống cứ điểm vững chắc hòng duy trì sự đô hộ lâu dài trên đất nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá đúng tình hình quốc tế, nội tình nước Pháp và cục diện chiến trường Việt Nam một cách khách quan, toàn diện, biện chứng, khoa học và chỉ ra mười khó khăn mà Pháp phải đối diện; từ đó Bác có những chỉ đạo chiến lược xác đáng nhằm giành thế chủ động tiến công liên tục trên chiến trường, quyết đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ.

Thực hiện chỉ đạo của Người, quân và dân ta đã đoàn kết, hợp đồng, phát huy thế mạnh của ta, khoét sâu điểm yếu của địch với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Thấu triệt tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh trong phân tích, đánh giá tình hình địch, ta để lựa chọn hình thức tác chiến phù hợp luôn được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt nhằm phát huy mọi ưu thế, sức mạnh tổng hợp, tranh thủ thời cơ để quyết chiến, quyết thắng với kẻ thù, hạn chế thấp nhất thương vong cho bộ đội, cùng toàn Đảng, toàn dân giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, thống nhất đất nước.

Trong giai đoạn hiện nay, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức tốt diễn tập với tinh thần thi đua “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, không để Tổ quốc bị động bất ngờ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Ngày 02 tháng 10

Địch công thành, ta công tâm, phải lấy được lòng dân”[2].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại cuộc họp Bộ Chính trị bàn về cách mạng miền Nam, Báo Nhân dân, đăng số 2750, ngày 02 tháng 10 năm 1961.

Đây là sự thể hiện nhất quán quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc phải luôn luôn lấy dân làm gốc, phải thấy được sức mạnh vô địch từ nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng qua”. Đây cũng là đặc trưng tiêu biểu về bản chất của Quân đội ta – quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về việc luôn coi trọng và đặt lên hằng đầu sức mạnh của quần chúng nhân dân, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân” là một bộ phận của tiềm lực chính trị tinh thần; dựa vào nhân dân, được nhân dân ủng hộ, che chở giúp đỡ; đồng thời, huy động và khai thác tiềm lực to lớn từ nhân dân, sức mạnh vô địch của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhờ xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, biết khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, căm thù giặc và sức mạnh của lòng dân, các lực lượng cách mạng đã tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức, thực hiện Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch, liên tục vây ép, tiến công địch cả về chính trị, quân sự, tiêu hao từng bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh, “căng, kéo, kìm, giữ địch“, buộc chúng phải phân tán đối phó, góp phần làm cho địch sa lầy bị động, tạo thế cho cấp trên và cùng bộ đội chủ lực ta tiêu diệt địch, giành thắng lợi. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thế trận lòng dân” tiếp tục được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chăm lo xây dựng và củng cố vững chắc; kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, được dân tin, dân mến, dân yêu, dân giúp đỡ là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc… Cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm, vượt mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chấp nhận hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” và niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân.

Ngày 03 tháng 10

Về mặt văn hóa, thì dù ai mù quáng đến mấy cũng phải thấy rằng chế độ xã hội chủ nghĩa của ta thắng lợi vẻ vang.

Chúng ta có quyền tự hào, nhưng chúng ta không được tự mãn”[3].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Một thắng lợi vẻ vang”, bút danh T.L, đăng trên Báo Nhân dân, số 2389, ngày 03 tháng 10 năm 1960.

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập (02/9/1945), Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu sự nghiệp giáo dục, đào tạo và xây dựng nền văn hoá mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn hoá do nhân dân lao động sáng tạo, giữ gìn và hưởng thụ – đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiến bộ, hiện đại, nhân văn và không ngừng phát triển.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giá trị, sức mạnh và sự cần thiết của việc coi trọng xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, nghị quyết nhằm xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển văn hoá đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội để hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước. Quan tâm xây dựng nền văn hóa VIệt Nam tiên tiến, đậm bản sắc dân tộc; không ngừng phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, nếp sống văn hóa, văn minh; cải thiện nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, huy động, khơi dậy tinh thần giữ gìn, sáng tạo văn hóa của cộng đồng xã hội. Qua đó, đã không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống và làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân; các nền tảng giá trị đạo đức được quan tâm gìn giữ, các qui tắc ứng xử văn hóa được hình thành, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trên địa bàn dân cư.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, truyền thống tốt đẹp của quân đội, trở thành một giá trị văn hoá quân sự với những nét đặc trưng tiêu biểu được thể hiện tập trung trong 10 lời thề danh dự của người quân nhân cách mạng, 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân. Thực hiện chất lượng, hiệu quả phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với phong trào thi đua Quyết thắng, các chương trình hành động và được cụ thể hóa thành cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong quân đội”, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.

Ngày 04 tháng 10

Cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Phải cần mà phải cẩn nữa”[4].

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Thiếu óc tổ chức – một khuyết điểm lớn trong các ủy ban nhân dân”, bút danh Chiến Thắng, đăng trên Báo Cứu quốc, số 58, ngày 04 tháng 10 năm 1945.

Đây là thời điểm đất nước mới giành được độc lập, chính quyền cách mạng mới được thiết lập, phải đối diện với một khối lượng lớn công việc cần được giải quyết, đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp phải dốc hết tâm huyết, nhiệt tình, trách nhiệm, song cần phải có sự tổ chức khoa học, hiệu quả. Do vậy, Bác đã viết bài để căn dặn đội ngũ cán bộ các cấp chỉ làm việc chăm chỉ là chưa đủ, mà phải làm việc khoa học, mới mang lại hiệu quả cao trong tổ chức, sắp xếp công việc của chính quyền mới.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Thấu suốt quan điểm của Người, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của dân tộc, chế độ; là khâu then chốt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nên đã dày công tổ chức, đào tạo, rèn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, chất lượng ngày càng cao, là nhân tố quan trọng đóng góp vào những thành quả vĩ đ...

26 tháng 9 2016

LƯU Ý

Các bạn học sinh KHÔNG ĐƯỢC đăng các câu hỏi không liên quan đến Toán, hoặc các bài toán linh tinh gây nhiễu diễn đàn. Online Math có thể áp dụng các biện pháp như trừ điểm, thậm chí khóa vĩnh viễn tài khoản của bạn nếu vi phạm nội quy nhiều lần.

Chuyên mục Giúp tôi giải toán dành cho những bạn gặp bài toán khó hoặc có bài toán hay muốn chia sẻ. Bởi vậy các bạn học sinh chú ý không nên gửi bài linh tinh, không được có các hành vi nhằm gian lận điểm hỏi đáp như tạo câu hỏi và tự trả lời rồi chọn đúng.

Mỗi thành viên được gửi tối đa 5 câu hỏi trong 1 ngày

Các câu hỏi không liên quan đến toán lớp 1 - 9 các bạn có thể gửi lên trang web h.vn để được giải đáp tốt hơn.

6 tháng 10 2016

Hình tượng Thánh Gióng với nhiều yếu tố thần kì là biểu tượng rực rỡ của ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân dân ta về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm.

1) Người xưa cho rằng đã là anh hùng thì phải phi thường, phải có khả năng như thần thánh, do trời sai xuống giúp đời. Do đó mà cậu bé làng Gióng là một nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai cũng khác thường: Một hôm, bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai… Bà có thai không phải chín tháng mười ngày mà tròn mười hai tháng. Đây là sự tưởng tượng của dân gian về nhân vật phi thường của mình.

Điều kì lạ nữa là Gióng lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi cứ đặt đâu thì nằm đấy. Những chi tiết kỳ ảo đó càng thu hút người nghe. Gióng không nói nhưng khi nghe sứ giả rao loa thì bỗng dưng cất tiếng nói. Tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tự nguyện đánh giặc. Lời nói yêu nước, cứu nước ấy cũng không phải là lời nói bình thường ở tuổi lên ba.

Chi tiết thần kì ấy ca ngợi ý thức đánh giặc, cứu nước của nhân dân ta được gửi gắm trong hình tượng Gióng. Ý thức trách nhiệm đối với đất nước được đặt lên hàng đầu với người anh hùng và tạo cho người anh hùng những khả năng hành động phi thường.

Còn năm ngửa trên chõng tre mà Gióng đòi có ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để đánh tan quân giặc. Ba tuổi, Gióng vẫn chưa biết đi nhưng tới lúc giặc đến thì vươn vai hoá thành tráng sĩ, nhảy lên mình ngựa, phi thẳng ra chiến trường. Khi cần có sức lực, tầm vóc để cứu nước thì Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ.

Dân gian kể rằng: Gióng ăn một bữa bảy nong cơm, ba nong cà, uống một hớp nước cạn đà khúc sông. Dấy là cách nói cường điệu của dân gian để tô đậm tính chất phi thường cho nhân vật mà mình yêu mến. Mẹ Gióng nuôi không nổi, bà con trong làng nô nức gom góp gạo thóc nuôi cậu bé, vì ai cũng mong cậu lớn nhanh để giết giặc cứu nước. Gióng đã lớn lên bằng thức ăn, thức mặc, bằng sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Gióng đâu chỉ là con của một bà mẹ mà là con của mọi người, của nhân dân. Một người cứu nước sao đặng? Phải toàn dân góp sức chuẩn bị cho sự nghiệp đánh giặc. Như vậy mới đủ sức mạnh để chiến thắng quân thù. Gióng lớn lên từ trong lòng nhân dân và do nhân dân nuôi dưỡng. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi bằng cơm gạo quê hương và tình thương vô hạn của bà con.

Vì sao Gióng lại lớn nhanh như vậy? Gióng lớn lên từ khi nào và lớn lên để làm gì? Trước khi có tiếng gọi cứu nước, Gióng chi nằm ngửa, không nói, không cười. Gióng mở miệng nói lời đầu tiên là để đáp lại lời kêu gọi cứu nước. Dường như việc cứu nước có sức mạnh làm cho Gióng vụt lớn lên. Việc cứu nước vô cùng to lớn và cấp bách, Gióng không lớn lên nhanh thì làm sao làm được nhiệm vụ cứu nước ? Cuộc chiến đấu đòi hỏi dân tộc ta phải vươn mình phi thườnq như vậy. Hình ảnh Gióng vươn vai là tượng đài bất hủ về sự trưởng thành vượt bậc, về hùng khí của một dân tộc trước nạn ngoại xâm. Khi lịch sử đặt vấn đề sống còn cấp bách, khi tình thế đòi hỏi dân tộc vươn lên một tầm vóc phi thường thì cả dân tộc vụt đứng dậy như Thánh Gióng, tự thay đổi tư thế, tầm vóc của mình. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến tranh cứu nước.

Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Nhân dân lúc bình thường thì âm thầm lặng lẽ, cũng như Gióng ba năm không nói, không cười. Nhưng khi nước nhà gặp cơn nguy biến thi họ rất mẫn cảm, tự nguyện đứng ra cứu nước cứu nhà. Cũng như Gióng, khi vua vừa phát lời kêu gọi, chú bé đã đáp lời cứu nước.

Giặc đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy. Vừa lúc sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt tới. Gióng vùng dậy vươn vai một cái, bỗng thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Chi tiết này có liên quan đến truyền thống của truyện cổ dân gian. Thời cổ, nhân dân quan niệm người anh hùng phải khổng lổ về thể xác, sức mạnh và chiến công. Thần Trụ Trời, Sơn Tinh… đều là những nhân vật khổng lồ. Cái vươn vai của Gióng là đạt đến độ phi thường ấy, Gióng nhảy lên mình ngựa, ngựa phun lửa, phi thẳng ra chiến trường. Ngọn roi của Gióng quật giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Gióng đánh giặc không chi bằng vũ khí vua ban mà còn bằng cả cây cối thân yêu của quê nhà.

Đánh tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Gióng ra đời đã khác thường thì ra đi cũng khác thường.

Nhân dân trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh người anh hùng nên đã để Gióng đi vào cõi bất tử, Gióng không quay về triều để được vua ban cho bổng lộc, vinh quang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Sinh ra từ cõi lặng im, nay Gióng trở về trong im lặng, không màng phú quý, công danh. Tuy Gióng đã trở về trời nhưng thật ra Gióng luôn luôn ở lại với đất nước, cây cỏ, với dân tộc Việt. Vua phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Gióng được nhân dân Suy tôn là Thánh và lập đền thờ ngay tại quê hương để muôn đời ghi nhớ công ơn.

Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc cứu nước. Trong văn học dân gian Việt Nam, đây là hình tượng người anh hùng đánh giặc đầu tiên, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta.

Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng đồng.Trong buổi đầu dựng nước, sức mạnh của thần thánh, tổ tiên thể hiện ở sự ra đời thần kì của chú bé làng Gióng. Sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở việc bà con dân làng góp gạo nuôi Gióng.

Dân tộc Việt Nam anh hùng muốn có hình tượng khổng lổ, tuyệt đẹp và có ý nghĩa khái quát để phản ánh hết được lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm suốt bốn ngàn năm lịch sử. Hình tượng Thánh Gióng với vẻ đẹp tuyệt vời rực sáng muôn đời đã đáp ứng được điều đó .

2) Đọc xong truyện "Thánh Gióng" chi tiết có ấn tượng sâu sắc trong lòng em. Đó là chi tiết "Gióng lớn nhanh như thổi , vươn vai thành tráng sĩ'' vì đây là chi tiết tưởng tượng kì ảo , thể hiện ước mơ khát vọng của nhân dân về hoà bình , ko có chiến tranh .Thánh Gióng cò mang trong mình một sức mạnh lớn lao :Đó là sức mạnh của toàn nhân dân người Việt cổ nên em thích chi tiết này .

6 tháng 10 2016

a/Truyền thuyết là những câu chuyện được lưu truyền bằng miệng của dân gian nhằm kể lại những hiện tượng kì lạ xảy ra trong dân gian có liên quan đến dấu tích lịch sử nào đó. Thánh Gióng là một câu chuyện li kì và hấp dẫn được dân gian kể lại. Cho đến nay hình ảnh Thánh Gióng vẫn là một biểu tượng đẹp trong lòng người đi sau.

Thánh Gióng là nhân vật chính trong câu chuyện đó. Vào thời Văn Lang, nước nam bị giặc Ân xâm lược, nhà vua tìm mọi cách để chống lại kẻ thù, tuy nhiên vẫn không hiệu quả. Bởi vậy vua đã ban lệnh xuống dưới tìm người có tài có thể đánh đuổi giặc Ân.

Trong thời điểm này thì ở một làng nọ có một đứa bé kì lạ sinh ra đã ba năm mà vẫn không nói, không cười, không biết làm gì hết. Song khi nghe tiếng rao của sứ giả, Thánh Gióng bỗng cất tiếng gọi mẹ “mẹ gọi sứ giả vào đây cho con”. Bất ngờ trước hành động của con nhưng bà mẹ cũng đã ra làm theo lời con gọi sứ giả vào. CHính sứ giả cũng bất ngờ vì khi thấy một đứa bé nói chuyện với mình. Bất ngờ hơn là yêu cầu của đứa bé đối với sứ giả.

Đây có thể coi là dấu mốc cho những thay đổi kì lạ của Thánh Gióng khiến cho mọi người kinh ngạc: cơm ăn bao nhiêu cũng không no, lớn nhanh như thổi, quần áo chật ních. Thánh Gióng đã vươn mình thành người thanh niên trai tráng.

Những ngày sau, nhà vua đã mang đến cho đứa bé những đồ mà đứa bé cần. Khi mặc lên người chiếc áo giáp, Thánh Gióng trở thành người lực lưỡng. Đi đến đâu, Thánh Gióng đều giết sạch kẻ thù, khi roi sắt gãy, Thánh Gióng nhổ tre ngà để đánh đuổi quân giặc. Chỉ trong một thời gian, đất nước ta đã sạch bóng kê thù.

Cuối cùng Thánh Gióng đã cưỡi ngựa phi đến đỉnh núi Sóc Sơn, hướng về quê mẹ, cưỡi ngựa bay về trời. Nhân dân tưởng nhớ công ơn nên đã lập đền Gióng để nhớ đến một người có công lao đánh đuổi giặc.

Như vậy câu chuyện với những tình tiết li kì như vậy và với kết thúc bất ngờ đã để lại trong lòng người xem nhiều suy nghĩ và nhiều trăn trở. Truyền thuyết chỉ là truyền miệng của mọi người nhưng đều dựa trên một căn cứ nào đó. Hình ảnh “Tháng Gióng” tượng trưng cho sức khỏe, cho ý chí và nghị lực của con người cần phải vượt lên số phận.

Người đời sau mỗi khi nhắc đến Thánh Gióng vẫn luôn tự hào vì những đức tính tốt đẹp. Tình yêu quê hương đất nước, quyết hi sinh thân mình để bảo vệ lấy bờ cõi của đất nước. Thánh Gióng đã trở thành một huyền thoại bất diệt cho những tấm lòng biết cống hiến cho đất nước.

Đối với những người trẻ thì Thánh Gióng là biểu tượng cho sức khỏe phi thường, cho sự vươn lên và nỗ lực. Đó là hình mẫu để chúng ta cần phải học tập, phải noi theo, rèn luyện để có thể cống hiến nhiều hơn nữa cho đất nước này. Hằng năm vẫn có Hội khỏe Phù Đổng diễn ra nhằm tìm ra những người có sức khỏe, có thể chất. Bởi có sức khỏe chúng ta mới có thể làm nên tất cả.

Như vậy truyện “Thánh Gióng” với những yếu tố li kì đã góp phần để lại trong lòng người đi sau những điều tốt đẹp về truyền thống mà cha ông ta đã dạy. Truyền thống yêu nước, truyền thống bảo vệ tổ quốc, truyền thống rèn 

b/Trong văn bản Thánh Gióng, e thích nhất chi tiết cậu bé 3 tuổi mà k biết nói cũng chẳng biết cười bỗng chốc trở thành 1 tráng sĩ mình đồng da sắt sau khi nghe tin nhà vua tìm người tài đánh giặc. Đây là hình ảnh tưởng tượng kì ảo, làm cho câu chuyện thêm phần sinh động đồng thời như đưa đọc giả lạc vào thế giới cổ tích đầy hứng thú. không những thế hình ảnh này còn có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. 1 con ng nhỏ bé phút chốc trở nên to lớn và vĩ đại tượng trưng cho lòng yêu nước và ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta. Khi đất nước bình yên họ là những ng vui vẻ, chất phác, khi đất nc có giặc xâm lăng, họ vùng lên vs tất cả sức mạnh vốn có, k màng đến hiểm nguy.

Bài Giải :

 ???

tui ko biết

10 tháng 8 2017

Bài này hình như đâu có căn cứ để tìm đâu 

bạn rất tốt nhưng tớ rất tiếc cô giáo bạn rất ác

18 tháng 3 2016

Ta có hình vẽ:

Thông cảm,không đều tí!

Cach giải dài lắm

 1. Hướng núi Tây bắc – đông nam có bao nhiêu dãy núi? Tên các dãy núi đó là j?2. Hướng núi Hình cánh cung có bao nhiêu dãy núi? Tên các dãy núi đó là j3. Hãy kể tên các đồng bằng (theo hướng từ bắc xuống nam)4. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do lũ lụt5. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do hạn hán6. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do bão7. Đặc điểm chính của Sông ngòi8. Đặc điểm chính...
Đọc tiếp

 

1. Hướng núi Tây bắc – đông nam có bao nhiêu dãy núi? Tên các dãy núi đó là j?

2. Hướng núi Hình cánh cung có bao nhiêu dãy núi? Tên các dãy núi đó là j

3. Hãy kể tên các đồng bằng (theo hướng từ bắc xuống nam)

4. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do lũ lụt

5. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do hạn hán

6. Hãy kể một vài hậu quả gây ra do bão

7. Đặc điểm chính của Sông ngòi

8. Đặc điểm chính của Biển

9. Đặc điểm chính của Đất

10.Đặc điểm chính của rừng

11. Nêu nhận xét số dân tăng thêm trung bình mỗi năm trong 3 giai đoạn nói trên của nước ta

12. Em hãy nêu những hậu quả do dân số đông và tăng nhanh ở nước ta

13. Hãy nêu một số ví dụ cụ thể về hậu quả của sự gia tăng dăn số nhanh ở  Nghệ An

14. Em hãy nêu hậu quả của sự phân bố dân cư chưa hợp lí của nước ta:đông đúc ở đồng bằng và ven biển, thưa thớt ở miền núi.

XIN TRẢ LỜI GẤP CHO MIK!NHANH LÊN!XIN ĐẤY!AI LÀM HẾT BÀI THÌ MIK SẼ ĐỀN ƠN!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

1
26 tháng 3 2018

 Vùng núi Đông Bắc:

+ Nằm ở tả ngạn sông Hồng với 4 cánh cung lớn, chụm đầu ở Tam Đảo, mở ra về phía bắc và đông. Đó là các cánh cung Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều.

+ Địa hình núi thấp chiếm phần lớn diện tích. Theo hướng các dãy núi là hướng vòng cung  của các dòng sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam thuộc hệ thống sông Thái Bình.

+ Địa hình Đông Bắc cũng theo hướng nghiêng chung tây bắc – đông nam. Những đỉnh cao trên 2.00 m nằm trên vùng thượng nguồn sông Chảy. Giáp biên giới Việt - Trung là các khối núi đá vôi đồ sộ ở Hà Giang, Cao Bằng. Trung tâm là vùng đồi núi thấp 500 – 600 m.

- Vùng núi Tây Bắc

+  Nằm giữa sông Hồng và sông Cả, có địa hình cao nhất nước ta với 3 dãy núi lớn theo hướng tây bắc – đông nam.

            + Phía đông là dãy núi cao đồ sộ Hoàng Liên Sơn giới hạn từ biên giới Việt -  Trung (thuộc tỉnh Lào Cai) tới khuỷu sông Đà, có đỉnh Phanxipăng (3.143 m).

+ Phía tây là địa hình núi trung bình của dãy sông Mã chạy dọc biên giới Việt Lào từ Khoan La San đến sông Cả; ở giữa thấp hơn là dãy núi xen các sơn nguyên và cao nguyên đá vôi từ Phong Thổ đến Mộc Châu tiếp nối những đồi núi đá vôi ở Ninh Bình – Thanh Hóa. Kẹp giữa các dãy núi là các thung lũng sông cùng hướng : sông Đà, sông Mã, sông Chu.