K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

12 tháng 5 2022

Tham khảo:

Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên.

12 tháng 5 2022

tham khảo

Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên

9 tháng 5 2022

- Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên.

12 tháng 5 2022

nionu

22 tháng 4 2021

ai giúp mink giải câu này với

25 tháng 4 2021

câu 1:

Trong nửa đầu thế kỷ XX, khoa học, kỹ thuật trên thế giới có những bước phát triển vượt bậc, tạo nên hàng loạt thay đổi quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đánh giá về sự phát triển đó, ngay từ năm 195l, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ''Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại'' về khoa học, kỹ thuật. Xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú của mình, Hồ Chí Minh cảm nhận một cách sâu sắc ý nghĩa, vai trò to lớn của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Người coi ''Thời đại của chúng ta bây giờ là thới đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại xã hội chủ nghĩa...''. Chính vì thế, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân; đồng thới tin tưởng rằng, chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho loài người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. 

Đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khoa học, kỹ thuật và sự phát triển của nó lại càng chứa đựng ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm hết sức thấp kém, nhất là về phương diện kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế còn rất nghèo nàn: trong nông nghiệp thì sản xuất nhỏ là phổ biến, kỹ thuật vô cùng lạc hậu; công nghiệp còn nhỏ bé và lẻ tẻ. Mặt khác, đối với chúng ta, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử phát triển của dân tộc. Trong điều kiện, hoàn cảnh như vậy, chỉ có dựa vào sự phát triển của một nền khoa học tiên tiến, bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, chúng ta mới đủ sức nghiên cứu, giải quyết một cách đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra. 

Miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một hoàn cảnh đặc biệt: xã hội vừa mới thoát khỏi ách thực dân, phong kiến, hết sức lạc hậu và đất nước còn bị chia cắt. Trong điều kiện như vậy, một vấn đề lý luận hàng đầu đặt ra chơ Đảng ta là phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Trong bài Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta''. Tư tưởng đó của Người không thuần túy là lời chỉ dẫn cho việc giải quyết một vấn đề lý luận đặt ra từ thực tiễn. Hơn thế, đó còn là định hướng chung cho sự phát triển của khoa học, đặc biệt là đối với hoạt động nghiên cứu lý luận mác-xít và khoa học xã hội. 

Khái quát thực trạng và những khó khăn to lớn của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ, xét từ góc độ khoa học và kỹ thuật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ''trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp kém. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều''. Vì thế, nhiệm vụ của khoa học ''là ra sức cải biến những cái đó Khoa học là tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp bóc lột và đấu tranh giữa con người với thiên nhiên''. Thực tế, ngay từ khi miền Bắc triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Người đã chỉ đạo việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, coi cách mạng khoa học và kỹ thuật là then chốt. 

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, khoa học là tài sản chung của toàn dân chứ không phải của riêng một nhóm người nào. Dưới chủ nghĩa tư bản, khoa học chịu sự chi phối và thao túng của các nhà tư sản, tài phiệt. Vì thế, nó trở thành một trong những công cụ làm giàu cho một thiểu số người giàu, có quyền lực trong xã hội; đồng thời, trở thành phương tiện áp bức, bóc lột nhân dân lao động một cách ngày càng tinh vi hơn. Ngược lại, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, tiến bộ của khoa học, kỹ thuật hướng về con người, bởi vì mục đích cao cả và đầy tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, phát triển cơn người toàn diện. Trong xã hội mới, những thành tựu của khoa học và kỹ thuật được sử dụng vì sự tiến bộ xã hội, vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động. 

Xuất phát từ thực tiễn, gắn chặt với thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn - đó vừa là biện chứng của sự phát triển khoa học, vừa là con đường để khoa học thâm nhập vào đời sống xã hội và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa khoa học, kỹ thuật với sản xuất và đời sống xã hội, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội nghị phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ''Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi''. Có thể thấy rằng, tư tưởng này của Người có ý nghĩa như một nguyên tắc phổ quát đối với mọi khoa học nói chung, trong đớ có khoa học xã hội và nhân văn. Khoa học chân chính phải bắt nguồn từ thực tiễn và tác động tích cực trở lại đối với thực tiễn. Có như vậy, khoa học mới mang lại những giá trị hữu ích, giúp cho con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. 

Từ quan niệm cho rằng, ngày nay, trí thức ''không còn là những người chỉ nằm trong cái tháp ngà và xa rời quần chúng'', trái lại “ luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức xây dựng xã hội mới'', Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi những người trí thức nói chung, những nhà khoa học nói riêng phải đem sự hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động. Người viết: ''Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tu tưởng, văn hóa và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi”. 

Có thể nói, tư tưởng về sự phát triển xã hội bằng biện pháp phát triển khoa học, kỹ thuật là một nét độc đáo, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Khi cho rằng, chúng ta phải dựa vào khoa học để tăng năng suất lao động, để cải thiện không ngừng đời sống nhân dân và bảo đảm cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội..., Người đã nhìn thấy ở khoa học, kỹ thuật một nguồn lực quan trọng của sự phát triển xã hội. Nhờ có tri thức khoa học, con người có thể hạn chế những sai lầm, lệch lạc mang nặng tính chủ quan, kinh nghiệm trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, và do vậy, làm cho quá trình phát triển của xã hội ngày càng gần hơn, phù hợp hơn với quy luật khách quan. 

Việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân nhằm đưa nước ta trở thành một nước văn minh, hiện đại là công việc rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, công việc ấy không thể tiến hành một cách tùy tiện, thiếu sự kiểm tra, giám sát. Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã và sẽ tiếp tục chứng minh rằng, khoa học, kỹ thuật luôn chứa đựng trong bản thân nó một sức mạnh tiềm tàng: nó có thể mang lại cho con người những lợi ích to lớn, song cũng có thể đặt con người trước những nguy cơ, hiểm họa khôn lường. Các Mác đã từng nhấn mạnh đến những hậu quả, đặc biệt là về mặt xã hội, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật dưới chủ nghĩa tư bản mang lại. Là người sống trong thời đại có cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và từng đặt chân tới nhiều nước công nghiệp phát triển trên thế giới, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cả mặt tích cực, tiến bộ lẫn những hậu quả tiêu cực mà cuộc cách mạng này đưa lại. Tiên liệu và cũng là để ngăn chặn những hậu quả có thể xảy ra của khoa học, kỹ thuật, Người đòi hỏi: những tri thức khoa học, kỹ thuật đem phổ biến phải thiết thực, chính xác. Nếu chỉ phổ biến rồi bỏ mặc quần chúng, không quan tâm theo dõi họ có thực hiện được hay không, kết quả thực hiện tốt hay xấu, ''như vậy là thiếu tinh thần trách nhiệm”. Tư tưởng này của Người có ý nghĩa rất sâu sắc, thấm đượm tinh thần của chủ nghĩa nhân văn: tất cả vì lợi ích chung, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn của con người. Ngày nay, khi phải đối mặt với những hậu quả do sự lạm dụng khoa học, kỹ thuật vì những toan tính vụ lợi, ích kỷ của con người gây ra, như ô nhiễm môi trường sống, ngộ độc thực phẩm, bệnh tật..., chúng ta lại càng cảm nhận rõ hơn chiều sâu cũng như ý nghĩa vượt trước thời đại trong tư tưởng của Người. 

Là một tấm gương mẫu mực về sự kết hợp giữa học và hành, giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết một cách thuần túy về vai trò, nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật đối với tiến bộ xã hội, mà Người còn thường xuyên lưu tâm làm tất cả những gì có thể vì sự phát triển của nền khoa học, kỹ thuật nước nhà. Trong đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc tập hợp trí thức, trọng dụng nhân tài, chăm lo xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật. Bởi vì, theo Người, ''muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy...

25 tháng 4 2021

nếu được thì đánh dấu cho mình nhé!

21 tháng 1 2022

Chiều tác động c̠ủa̠ văn hóa trong kinh tế

Như trên đã trình bày, văn hóa thuộc “tính thứ hai” so với kinh tế, nhưng không phải Ɩà hệ quả thụ động, một chiều; do tính độc lập tương đối ѵà dưới tác động c̠ủa̠ quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế, mà sự tác động c̠ủa̠ văn hóa đối với kinh tế sẽ phức tạp ѵà đa chiều.Trong xã hội hiện đại, văn hóa lại càng “thoát ra” mạnh hơn khỏi phạm vi “đời sống tinh thần” thuần túy.Văn hóa xâm nhập, tương tác ѵào tất các các lĩnh vực c̠ủa̠ đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, đối ngoại ѵà hội nhập quốc tế…), không chỉ Ɩà những giá trị phát triển mà còn trở thành một phần thiết chế phát triển c̠ủa̠ các lĩnh vực đó.Với kinh tế mối quan hệ đó được thể hiện trong 3 dạng chủ yếu:

– Văn hóa Ɩà một yếu tố quan trọng trong xây dựng thể chế, thiết chế phát triển kinh tế, một định hướng cho mục tiêu phát triển kinh tế.

– Văn hóa Ɩà một động lực, công cụ để hỗ trợ – thúc đẩy phát triển kinh tế; ѵà phát triển kinh tế tạo cơ sở nguồn lực ѵà động lực phát triển văn hóa.

– Văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực kinh tế (thế giới nói tới “công nghiệp văn hóa”, “sản nghiệp văn hóa”, “kinh tế văn hóa”, “dịch vụ văn hóa”…).

đâʏ Ɩà những vấn đề rấт mới ѵà quan trọng, cần được nghiên cứu thấu đáo cả về lý luận ѵà thực tiễn, nhất Ɩà khi xã hội đi ѵào phát triển kinh tế tri thức ѵà xã hội thông tin.

1)Tác động c̠ủa̠ văn hóa tới mục tiêu ѵà chính sách phát triển kinh tế

đâʏ có thể Ɩà sự tác động c̠ủa̠ văn hóa tới sự phát triển kinh tế ở tầng vỹ mô (cao nhất), cũng như ở các chủ thể sản xuất kinh doanh.Ở đây các giá trị con người, giá trị xã hội thể hiện ở quyền, nghĩa vụ, lợi ích ѵà cuộc sống c̠ủa̠ con người được xem xét ѵà đặt ѵào vị trí như thế nào trong trọng tâm c̠ủa̠ các mục tiêu ѵà chính sách phát triển kinh tế, ѵào việc hình thành các mục tiêu đó trong thể chế – cơ chế phát triển kinh tế.Điều này được thể hiện rấт rõ trong tư duy ѵà chính sách phát triển kinh tế hướng tới như thế nào trong việc thực hiện các giá trị con người ѵà giá trị xã hội.Trên thực tế thường có ba xu hướng sau : Một Ɩà, khi nhận thức rõ tầm quan trọng c̠ủa̠ việc hướng tới thực hiện các gia trị con người ѵà các giá trị xã hội, coi đó vừa Ɩà mục tiêu vừa Ɩà động lực phát triển (đương nhiên Ɩà cần phải phù hợp với điều kiện ѵà trình độ phát triển c̠ủa̠ từng giai đoạn cụ thể), thì trong mục tiêu, cơ chế ѵà chính sách phát triển kinh tế sẽ có sự kết hợp một cách hữu cơ với phát triển các vấn đề xã hội, mà trọng tâm Ɩà các giá trị con người, giá trị văn hóa. Hai Ɩà, xu hướng coi nhẹ các các mục tiêu giá trị con người, giá trị văn hóa, đặt các mục tiêu kinh tế (phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…) tách biệt với các mục tiêu phát triển xã hội, đặt cao các mục tiêu phát triển kinh tế như Ɩà những mục đích tối thượng – tự thân.Xu hướng này kéo dài sẽ dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các vấn đề kinh tế ѵà các vấn đề xã hội, Ɩàm giảm động lực nhân tố con người trong phát triển.Về điều này có thể liên hệ qua một ví dụ nhỏ : Việc quy hoạch ѵà phát triển tràn lan các nhà máy thủy điện nhỏ ở nhiều nơi (vì mục tiêu tăng sản lượng điện), nhưng không tính tới ѵà đảm bảo đầy đủ về lợi ích c̠ủa̠ người dân trong vùng liên quan, về môi trường sinh thái, về rừng …, gây ra những hệ quả nghiêm trọng, đã phải rà soát lại ѵà bỏ ra khỏi quy hoạch hàng trăm công trình.Điều này còn thấy thể hiện ở những chính sách đầu tư ở tầm cao hơn. Ba Ɩà, xu hướng coi trọng việc đặt ѵà thực hiện các mục tiêu xã hội cao hơn điều kiện ѵà trình độ thực tế c̠ủa̠ nền kinh tế, thể hiện ở chế độ bao cấp cao ѵà mang tính bình quân cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội.Điều này, nhìn bề ngoài được thể hiện như Ɩà một tính ưu việt c̠ủa̠ xã hội; tuy nhiên nếu kéo dài có thể sẽ dẫn đến hai hệ quả : nguồn lực kinh tế c̠ủa̠ đất nước không đủ sức chịu đựng cho sự bao cấp như ѵậყ, đầu tư cho phát triển sẽ giảm dần.Đồng thời, trong xã hội có thể sẽ hình thành “giá trị con người – giá trị xã hội” quen hưởng thụ được bao cấp cao hơn năng lực ѵà cống hiến c̠ủa̠ mình, chính điều này cũng sẽ Ɩàm yếu đi động lực con người trong sự phát triển.Có thể nêu lên đây hai ví dụ cho xu hướng này: Ở Việt nam, chính sách xóa đói giảm nghèo rấт ưu việt, song một số nơi thực hiện sự bao cấp bình quân cao ѵà không có điều kiện kèm theo, vì ѵậყ dẫn đến hiện tượng nhiều hộ, nhiều địa phương “không muốn thoát nghèo”.Còn ở Châu Âu, cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về nợ công ѵà thâm hụt ngân sách ở nhiều nước, có nhiều nguyên nhân, song trong đó có một nguyên nhân Ɩà các nước đó đã thực hiện các chính sách xã hội cao hơn so với nguồn lực thực tế, điều kiện ѵà khả năng phát triển kinh tế c̠ủa̠ mình.

Như ѵậყ, việc nhận thức cho đúng các mục tiêu về giá trị văn hóa, giá trị xã hội trong mỗi giai đoạn ѵà việc đặt các mục tiêu đó gắn hữu cơ – biện chứng với mục tiêu, chiến lược, quy hoạch, cơ chế ѵà chính sách phát triển kinh tế có một tầm quan trọng đặc biệt.              

2) Tác động c̠ủa̠ văn hóa trong sản xuất kinh doanh:

Như trên đã trình bày, khi văn hóa phát triển xác lập được thành những thể chế, thiết chế mới, những giá trị con người, giá trị văn hóa, giá trị xã hội mới sẽ tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế ѵà các lĩnh vực khác.Sự tác động này có thể mang tính thuận chiều hoặc ngược chiều : Khi những giá trị con người – giá trị văn hóa phù hợp với quy luật ѵà cơ chế phát triển kinh tế khách quan sẽ có sự tác động cùng chiều ѵà tạo nên động lực mạnh cho sự phát triển cả về kinh tế ѵà xã hội.Ngược lại, khi các giá trị con người – giá trị văn hóa không phù hợp với quy luật ѵà cơ chế phát triển kinh tế sẽ có tác động ngược chiều, Ɩàm suy yếu động lực phát triển cả về kinh tế ѵà xã hội, thậm chí có thể còn dẫn tới những rối loạn xã hội.Có thể thấy điều này ở trong cơ chế HTX – Tập thể hóa trước đây, hình thành các giá trị con người ѵà giá trị văn hóa c̠ủa̠ cơ chế đó, về bản chất Ɩà không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, đã đi đến mất động lực phát triển, Ɩàm cho nền nông nghiệp rơi ѵào khủng hoảng nghiêm trọng trong những năm 1970 – 1980, phải đi đến giải thể.Khi chuyển sang xác định “Hộ nông dân Ɩà đợn vị kinh tế tự chủ” với các giá trị mới về vị thế c̠ủa̠ kinh tế hộ nông dân, về quyền c̠ủa̠ người nông dân như quyền Ɩàm chủ ruộng đất, tư liệu sản xuất ѵà sản xuất kinh doanh…, ѵà trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nông dân để hình thành các hợp tác xã kiểu mới, phù hợp với bản chất c̠ủa̠ nền kinh tế nông nghiệp, đã tạo nên động lực mạnh mẽ – chủ yếu cho phát triển nông nghiệp, tạo nên những  “kỳ tích” c̠ủa̠ nền nông nghiệp trong những thập kỷ qua (nhưng giờ đây lại đang đặt ra những vấn đề mới trong phát triển nông nghiệp) .

Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế, vai trò c̠ủa̠ văn hóa kinh doanh, văn hóa quản trị doanh nghiệp đóng vai trò rấт quan trọng đối với phát triển kinh tế.Ở đây sẽ diễn ra sự tương tác giữa các giá trị văn hóa ѵà các giá trị kinh tế phước tạp ѵà mang tính hai mặt.Một mặt, các mô hình quản trị kinh doanh mới, các hình thức tổ chức ѵà phương pháp quản trị doanh nghiệp tiến tiến cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao hơn từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến hơn được đưa ѵào Việt nam với các các giá trị văn hóa kinh doanh mới (thông qua các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh liên kết, qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh, qua đào tạo nhân lực…).đâʏ Ɩà những giá trị văn hóa kinh doanh tiên tiến (như coi trọng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, xây dựng thương hiệu, chất lượng, hiệu quả, đổi mới công nghệ, trọng dụng nhân tài, văn hóa hội nhập quốc tế…) có tác dụng quan trọng đối với việc đổi mới ѵà xây dựng nền quản trị kinh doanh c̠ủa̠ Việt Nam từng bước tiếp cận với chuẩn mực quốc tế.Nhưng đồng thời, khi khung khổ pháp lý c̠ủa̠ nước ta chưa đồng bộ, kém hiệu lực – hiệu quả, thì cũng bị các đối tác nước ngoài “đưa ѵào” những giá trị văn hóa kinh doanh tiêu cực như hiện tượng “chuyển giá” rấт nghiêm trọng ở những doanh nghiệp FDI mà báo chí đã nêu, hay cách bắt lao động Ɩàm quá sức lại trả lương rấт thấp ở không ít doanh nghiệp…Đồng thời, trong quá trình này không ít các giá trị văn hóa kinh doanh mang tính “chộp giật”, lừa đảo, cò con, thiếu trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội…c̠ủa̠ một nền sản xuất nhỏ còn đang tồn đọng đã có tác động tiêu cực lớn đến kết quả ѵà hiệu quả sản xuất kinh doanh, đến xây dựng nền văn hóa kinh doanh mới đáp ứng với yêu cầu c̠ủa̠ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ѵà hội nhập quốc tế..    

  Phát triển văn hóa ѵà con người trong bối cảnh từ một đất nước với nền sản xuất nông nghiệp tiểu nông, thủ công Ɩà chủ yếu, còn mang nặng dấu ấn c̠ủa̠ tồn đọng c̠ủa̠ xã hội phong kiến thực dân, từ một xã hội nhiều năm có chiến tranh sang xã hội hòa bình; chuyển đổi thể chế phát triển kinh tế – xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; từ khép kín, đóng cửa sang hội nhập quốc tế toàn diện; từ mô hình phát triển chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình phát triển theo chiều sâu… đang đứng trước rấт nhiều cơ hội ѵà thách thức.Trong đó nổi lên một trong những vấn đề trung tâm Ɩà hình thành ѵà phát triển hệ giá trị xã hội, hệ giá trị con người như thế nào để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế ѵà xã hội.Trên thực tế đang tồn tại những nhận thức, quan niệm ѵà thực tiễn rấт khác nhau (được thể hiện ngay trong các cách đánh giá “tốt, xấu”, “tích cực, tiêu cực”, “chính đáng, không chính đáng”…).Có thể nêu lên một số thực trạng để thấy rõ hơn bản chất c̠ủa̠ vấn đề :Thứ nhất, đó Ɩà tệ nạn tham nhũng.Đảng, Nhà nước ѵà toàn hệ thống chính trị đã nhận rõ mối nguy hại c̠ủa̠ tệ nạn này (coi Ɩà quốc nạn, giặc nội xâm),...

31 tháng 7 2019
Nho giáo vào Việt Nam từ thế kỷ I TCN; khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị đất Giao Châu. Nhưng, trong suốt một ngàn năm Bắc thuộc, ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam còn rất hạn chế. Đa phần sự ảnh hưởng đó chỉ có ở các đô thị, gắn liền với sinh hoạt của những viên quan cai trị và một bộ phận những người bản xứ giúp việc cho những quan cai trị đó. Có thể nói, ở Việt Nam lúc bấy giờ, Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ. Mặt khác, sự truyền bá Nho giáo cùng với việc phổ biến chữ Hán đã đưa tới Việt Nam một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền văn học, sử học, triết học, thiên văn học và y học của người Trung Hoa cổ đại. Lúc đó, ảnh hưởng của Nho giáo chưa vượt khỏi phạm vi của các thị trấn để đến với các vùng dân cư rộng lớn của đồng bằng và trung du Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Nhân dân ở các làng xã chưa thực sự tiếp thu những nguyên tắc của Nho giáo. Phải đến thế kỷ X, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam.
31 tháng 7 2019

Phân tích sự phát triển và vai trò của Nho giáo đối với nhà nước phong kiến Việt Nam trong thế kỷ X đến thế kỷ XV .Xã hội Việt Nam hiện nay có cần phát huy những yếu tố tích cực của nho giáo không? Tại sao?

Về sự phát triển của nho giáo tại Việt Nam

Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam từ rất sớm (thế kỷ I TCN), tuy nhiên do quá trình chống Hán hóa, nên Nho giáo thời kỳ Bắc thuộc không xâm nhập mãnh mẽ vào xã hội Việt Nam, nó chỉ được ghi bởi dấu ấn một số cá nhân như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp.

Sau năm 938, nước ta hoàn toàn độc lập, từ đây Nho giáo có bước thăng tiến đáng kể. Thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê, nho giáo chưa thực sự mạnh mẽ, chỉ là một trong những hệ tư tưởng ở nước ta nhưng không có ảnh hưởng sâu rộng. Phật giáo và đạo giáo vẫn là những hệ tư tưởng, tôn giáo mạnh, trong triều đình luôn có 1 quốc sư phật giáo.

Sang thời Lý Trần, Nho giáo có bước tiến lớn, các vua nhà Lý và nhà Trần chú trọng quan tâm nho giáo (mở Văn miếu, lập Quốc tử giám)… đặc biệt các khoa thi đã được mở, tuyển chọn quan lại từ khoa bảng nho học. Tuy nhiên, thời kỳ này phật giáo và đạo giáo phát triển mạnh mẽ do được các vua Lý Trần chú trọng quân tâm, thời Lý là thời kỳ của 3 tôn giáo, hệ tư tưởng này cùng đồng hành, được gọi là Tam giáo đồng nguyên. Thời Trần, Nho giáo được phát triển mạnh hơn, các khoa thi được tổ chức quy củ hơn, định danh tước rõ ràng. Tuy nhiên tại các làng xã, nho giáo chưa có tác động sâu rộng.

Sang thời Lê sơ, Nho giáo được độc tôn và phát triển mạnh mẽ, nhà nước được xây dựng trên nền tảng nho giáo, quan lại được tuyển chọn qua con đường thi cử, các khoa thi có quy định, tổ chức rõ ràng, thời gian đều đặn. Đặc biệt, nho giáo đã bắt đầu ảnh hưởng đến các làng xã, có tác động nhất định đến đời sống làng xã Việt Nam.

Vai trò của nho giáo

- Thứ nhất, tạo ra một hệ tư tưởng góp phần ổn định xã hội.

- Thứ hai, hòa quyện vào văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên văn hóa Việt Nam trong suốt thời kỳ phong kiến.

- Thứ ba, giúp dân tộc ta trong quá trình mở rộng lãnh thổ.

- Thứ tư, góp phần xây dựng bộ máy chính trị nước ta ngày càng hoàn thiện hơn.

Ngày nay, chúng ta cần phát huy những giá trị tốt của Nho giáo như: đề cao lễ nghĩa, sự hiếu thảo, tôn sư trọng đạo, đề cao lòng nhân từ trong cuộc sống, chữ tín trong làm ăn, đề cao trí tuệ, lòng dũng cảm…

28 tháng 12 2021

Gặp đồng loại

Tui ARMY BTS NEK