Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Tham khảo :
“ Buổi sớm mai ướm bước chân mình lên vết chân trên cát
Bà mẹ đã cho ra đời những Phù Đổng thiên vương
Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay những anh hùng
Là bác học… hay là ai đi nữa
Vẫn là con của một người phụ nữ
Một người đàn bà bình thường, không ai biết tuổi tên”
Những câu thơ bình dị của nữ nhà thơ Xuân Quỳnh làm tôi bất giác nghĩ về tình mẹ. Mẹ- tiếng gọi nghẹn ngào mà thân thương đến lạ. biết bao ấm áp, bao niềm vui, bao sung sướng đầy vơi chất trong tiếng gọi ấy. Có lẽ rằng, viết về mẹ mãi mãi là dề tài không mới nhưng không bao giờ cũ trong dòng chảy văn học. Tình cảm nhân bản và cao đẹp ấy ta đã bắt gặp trong Nắng mới của Lưu Trọng Lư, Con cò của Chế Lan Viên… và rất nhiều, rất nhiều bài thơ khác nữa. nhưng không hiểu sao hai câu thơ của Nguyễn Duy trong bài “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” cứ ám ảnh, cứ day dứt trong lòng tôi mãi:
“Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết những lời mẹ ru”.
Đây là hai câu thơ xúc động, sâu lắng và hàm súc trong một bài thơ viết về mẹ. Tiếng thơ ngọt ngào mà dung dị, chân thành mà tha thiết của Nguyễn Duy giờ nén lại trong hai câu lục bát. Không mĩ miều về ngôn từ,những đúc kết cũng giản dị như không nhưng vẫn có sức lay thức ta tận nhưng miền sâu thẳm. Vẻ đẹp của hai câu thơ toát lên từ tính trữ tình. Đó là chất thơ- chất nhạc ắp đầy lên từng câu chữ. Tình cảm biết ơn được thể hiện ở dòng cảm xúc vừa lắng đọng vừa thiêng liêng. Không hiểu sao đọc hai câu thơ, miền nhớ trong tôi lại chợt vọng về giai điệu bài hát Mẹ yêu con của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tí. Đúng rồi, đúng là tiếng thơ, là tiếng nhạc: “À ru hời, à hời ru”… Tấm lòng trân trọng, sự thấu hiểu và sự biết ơn muôn vàn của người con đối với mẹ được khởi phát từ tận sâu thẳm cõi lòng, thổn thức trong trái tim, lan tỏa nơi đầu ngọn bút để dồn nén lên hai câu thơ ấy.
Câu thơ còn đậm tính triết lý. Những triết lý tự nhiên không hề xa vời, phù phiếm. Đó không phải là triết lý thuần trí tuệ mà là triết lý của trái tim bởi ở đó cái ý thơ, cái tình của người làm thơ đã hòa lắng, bện quyện vào nhau. “Mấy lời mẹ ru” là biểu tượng cho tình cảm thương yêu vô bờ mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp” cũng “không đi hết” đã khẳng định tình mẹ là vô cùng lớn lao, thiêng liêng, là cao cả, bất tử, và vô tận, không sao có thể đền đáp hết được. Giai điệu trữ tình mênh mang hòa lẫn vào độ đằm sâu của triết lý đã nói hộ được lòng biết ơn sâu sắc của người con đối với mẹ. Tiếng lòng ấy vấn vương một nỗi yêu thương sâu lắng. Những xúc cảm ấy có được nhờ sự lên ngôi của những trải nghiệm, những nông- sâu- vơi- cạn, ý vị của cuộc đời.
Tình mẫu tử là tình cảm thương yêu đùm bọc, chở che vỗ về…mà người mẹ dành cho con. Từ dòng sữa ngọt thơm dưỡng nuôi con lớn lên về mặt thể chất, đến lời ru êm đềm tưới mát tâm hồn con, cho con lớn lên về mặt tâm hồn. Rồi đến “bát cơm con ăn tay mẹ nấu”, “bát nước con uống tay mẹ đun”… những tình cảm cao quý ấy, sự yêu thương của mẹ đối với “hạt máu cắt đôi” vừa tự nhiên, vừa cao cả nên nó sẽ đi theo mỗi người suốt cuộc đời.
Trong đời sống con người có nhiều thứ tình cảm cao đẹp: đó là sự kính trọng đối với ông bà, là sự nhường nhịn bảo ban nhau của anh chị em, đó là sự sẻ chia buồn vui giận hờn của tình bạn, đó cũng có thể là vị ngọt ngào pha lẫn đắng cay của tình yêu đôi lứa. Và hơn thế, rộng hơn là tình cảm với quê hương, đất nước, với cội nguồn. Nhưng tình mẫu tử vẫn có một vị trí đặc biệt, thiêng liêng và máu thịt nhất.
Bởi đó là tình cảm đầu tiên của mỗi người khi sinh ra và sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời. Khuôn mặt đầu tiên, nụ cười đầu tiên…mà ta bắt gặp chính là mẹ. Chính vì thế nó sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời ta. Hơn thế nữa, đó là tình cảm vừa có yếu tố máu thịt vừa mang tính tinh thần cao cả. Đứa con là “hạt máu cắt đôi của mẹ”, là sinh linh bé bỏng mà mẹ đã mang nặng đẻ đau trong suốt hơn chín tháng. Niềm vui, giọt nước mắt, hạnh phúc xen lẫn đau đớn tuôn trào và vỡ òa ra khi con cất tiếng khóc chào đời. Tình cảm ấy vừa là động lực, vừa là hành trang trên con đường dài rộng của con sau này.
Hạnh phúc biết bao khi ta được sống trong tình mẫu tử. Được sống trong tình mẫu tử là ta được sống trong sự nâng niu, chở che. Được sống trong tình mẫu tử là ta có được sức mạnh để vượt lên khó khăn trong cuộc sống. Con vấp ngã, mẹ hiền từ đỡ con dậy, tiếp cho con nghị lực, con có lỗi mẹ sẵn sàng tha thứ, dang rộng vòng tay giúp con có cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Bài học làm người con đâu chỉ được học ở trên lớp, ở thầy, ở cô mà con còn từng được học ở mẹ nữa. Lòng mẹ khoan dung, trái tim mẹ dạt dào tình thương.
Cảm thấu tấm lòng, đức hi sinh bao la của mẹ, những người con phải làm gì để đền đáp công lao đó? Không đâu, không bao giờ ta trả nổi những gì mà mẹ đã làm cho ta. Khi còn thơ bé, một điểm mười đỏ chói con mang về khoe là niềm hạnh phúc của mẹ. Khi lớn lên, con có một gia đình hạnh phúc, sống trong đủ đầy là lòng mẹ đã vô cùng mãn nguyện. Phải rồi, chỉ có thế thôi. Mẹ chỉ cần có thế!
Ấy vậy mà trong xã hội hiện nay, vẫn còn đâu đó những đứa con đã vô tình với người đứt ruột sinh ra mình. Cách đây không lâu, bản tin thời sự trên truyền hình đã đưa tin một người con trai đánh đập mẹ ngay tại chính gian bếp nhà mình. Có những người coi việc mẹ chăm sóc nuôi nấng mình là trách nhiệm và việc mình “bố thí” cho mẹ lúc về già một ít tiền đã là hoàn thành nhiệm vụ của bậc làm con. Thật đáng hổ thẹn với những quan điểm sai lệch, thiển cận của những người con bất hiếu ấy…
Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi ý thức cá nhân con người được khơi dậy và đề cao thì mỗi người càng cần phải nhìn nhận lại những thái độ tình cảm của mình với mẹ. Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại đã có những dòng thơ nói về một tuổi trẻ bồng bột với những ngộ nhận và thiên kiến:
“Con mê hoặc những chân trời cối bể
Sau chân trời, chân trời khác càng xa
Không biết sau lưng tóc mẹ sương nhòa
Không biết cuộc đời là gang tay, công danh là mây nổi”…
Với tôi, với một cô bé mười sáu tuổi, đã không ít lần tôi giận mẹ, không ít lần tôi nỡ cư xử không hay với mẹ. nhưng với tôi mẹ mãi là nguồn yêu thương, nguồn động lực giúp tôi những khi gặp khó khăn.
Quê tôi ở miền đất gió lào cát trắng. Giờ đây, những trận mưa vẫn xối xả rơi, cái rét ngọt cuối năm đang tràn về và bàn chân khô nứt nẻ của mẹ lại lội xuống bùn. Rồi mẹ lại đọi nón đưa tôi tới trường trong cái lạnh tê tái và trở về trong ánh chiều chạng vạng.Mẹ ơi, năm nay con đi học xa nhà, con mong trường sẽ cho nghỉ sớm, để con được về phụ giúp mẹ cấy lúa mẹ nhé!
Con thầm cảm ơn thượng đế chí nhân đã ban cho con một người mẹ, cho con nhận được từ cõi lòng mẹ tình yêu thương, sự chở che. Mãi khi con lớn lên mười sáu con mới cảm nhận được phần nào tình thương của mẹ. Những đùm trứng, bó rau, những quả chanh, những cân gạo…tất cả là bao ngọt bùi năm tháng mẹ chắt chiu nuôi con ăn học…
Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Duy đã cho tôi được lắng đọng trong tình mẹ…
À ơi…! Con đã lớn lên từ lời ru của mẹ sao, mẹ ơi! Lời mẹ ru bên nôi em con sao ngọt ngào, sao êm ái, khiến lòng con nhớ đến những ngày được mẹ địu trên lưng, được mẹ ru con ngủ. Con nhớ quá mẹ ơi, con muốn bé lại để được nằm trên lưng mẹ, để lại được mẹ ru ạ ời…
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Câu thơ của Nguyễn Duy rất trữ tình mà vẫn đậm chất triết lí sâu xa. Dẫu có “đi trọn kiếp con người” con cũng chẳng thể đi hết “mấy lời mẹ ru” bởi tình mẹ là thiêng liêng, bao la vô tận, là bất tử; dẫu có “đi trọn kiếp con người” con vẫn mãi chỉ là một đứa bé trong lời ru ầu ơ của mẹ. Lời thơ lắng đọng lại một tình yêu thương vô bờ của đứa con với mẹ mình. Con bối rối, con bâng khuâng và con yêu biết mấy lời mẹ thiết tha trong tận sâu trái tim con. Nhà thơ đã nói hộ lòng con rằng: “Mẹ ơi, con yêu mẹ biết nhường nào!”. Con vẫn biết "Con dù lớn vẫn là con của mẹ / Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con ", bước chân mẹ sẽ luôn theo chúng con đến trọn kiếp người. Mẹ bên con, mẹ ru con mãi mãi. Mẹ ru con bằng cả tấm lòng, bằng cả tình thương; mẹ ru con bằng cả trái tim mẹ cả! Hỡi tất cả những đứa con yêu quý, hãy ghi nhớ lấy những lời thơ như một chân lí ấy: "Ta đi trọn kiếp con người / Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru" .
“Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”, mẹ đã cho con cuộc sống đầy tình yêu thương và niềm hạnh phúc. Những lời ru ấm áp tình thương ấy đã cho con giấc ngủ yên lành. Con dù đã lớn, nhưng trong đêm những lúc con trở mình, đôi tay gầy của mẹ vẫn vỗ nhẹ vào con, đưa con vào giấc ngủ sâu. Làm sao con có thể quên cái cảm giác ấm áp khi được mẹ “vỗ về” cơ chứ! Mẹ lúc nào cũng thương yêu, đùm bọc, cũng chở che con trong vòng tay. Nhưng mẹ ơi, con chợt thấy buồn khi nhận ra trong cái thế kỉ hiện đại này, có nhiều người đã không còn biết hát ru con, họ để con nằm trong cái nôi ấm áp chăn đệm chứ không phải như mẹ đã ôm ấp con. Con hãnh diện biết bao vì con được lớn lên từ vòng tay mẹ. Mẹ đã địu con trên lưng những lúc trồng lúa, trồng khoai chỉ vì mẹ sợ con tỉnh dậy không có mẹ ở bên. Mẹ bảo: “Mẹ cõng mày còng cả lưng, khổ lắm, nhưng mà yên tâm, để mày ở nhà nhỡ dậy chả có ai bế lại khóc hết hơi thì tội. Thế mà mày tè cả lên người mẹ đấy”. Mẹ vừa nói vừa cười, tiếng cười của mẹ tự nhiên cứ hằn sâu trong con. Cuộc sống vất vả của mẹ đã cho con tình thương. Giờ đây khi con đã lớn khôn, mẹ vẫn gọi con là “con ranh”, vì con vẫn chỉ là một đứa bé không thể thiếu đôi tay mẹ ở bên.
Trong tim con có bao thứ tình cảm đẹp đẽ, nhưng tình yêu mẹ luôn là đẹp nhất. Mẹ có nhớ cái lần con đi chơi nhà bạn Hoa sau giờ tan học đến tận mười hai giờ trưa? Mẹ đã lo lắng, đạp xe khắp làng vừa tìm con, vừa khóc. Lần ấy, mấy cái vụt vào chân, con đã khóc nức lên, mẹ nghiêm khắc nói: “Không được khóc nữa, còn khóc mẹ lại vụt, rõ chưa?”. Nhưng mẹ ơi con đã thấy, lúc quay lưng đi mẹ đã khóc thầm. Con hứa sẽ không bao giờ như thế nữa đâu. Mẹ có nhớ không, lần đầu tiên con lỡ giận mẹ ấy, chỉ vì con còn nhiều bài tập mà quên béng đi chậu quần áo chưa giặt. Mẹ nhắc nhẹ nhàng, thế mà con lại gắt gỏng: “Con sẽ giật là được chứ gì”. Lúc ấy con cứ nghĩ “mình chẳng có lối gì cả, đâu phải tại mình lười”. Nhưng cả ngày hôm đó con đã đóng kín cửa phòng, hối hận “tại sao mình lại có thể hỗn láo với mẹ như thế được…”. Cho đến khi mẹ gọi con xuống ăn cơm và thủ thỉ: “Con gái của mẹ đà lớn rồi, con cần làm những công việc vặt trong nhà, dù nhiều bài tập thế nào nếu con biết sắp xếp thời gian biểu của mình hợp lí thì con vẫn có thể giúp mẹ cơ mà, đúng không con yêu!”. Mẹ thật tuyệt vời, mẹ là người tuyệt vời nhất của con. Mẹ dã ở bên con, nhắc nhở và dạy con cách làm người, mẹ luôn là người đỡ con dậy mỗi lần bị điểm kém, mỗi lúc con gặp khó khăn. Nhưng mẹ ơi, con chợt th
Thêm một người quả đất sẽ chật hơn
Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt
(Đồng dao trước hoàng hôn)
Làm sao con có thể sống hạnh phúc được nếu thiếu mẹ. Hỡi những người con trên trái đất này, đừng bao giờ để mẹ mình phải buồn phiền, hãy yêu mẹ nhiều hơn nữa và đừng để tình yêu muộn màng sẽ biến thành ân hận…
Con không thể tưởng tượng được nỗi đau xé ruột của một người mẹ khi mất đi đứa con của mình. Vậy mà hiện nay con thấy có những người mẹ lại có thể bỏ rơi con. Tất nhiên họ cũng chẳng dễ gì mà dứt đi đứa con thân yêu của mình như thế. Có người vì không đủ khả năng để cho con một cuộc sống tốt đẹp , có người vì hoàn cảnh ép buộc không thể nuôi con ở bên, lại có người vì không thể sống chung với chồng… Tại sao họ không thể vượt qua hoàn cảnh? Oái oăm hơn, lại có cả người mẹ coi con như người dưng nước lã. Tất cả đã để lại cho những đứa con của họ nỗi đau đớn nặng nề , những đứa trẻ đó thật bất hạnh vì chúng thiếu thốn tình cảm vô cùng. Cuộc sống như thế chỉ đẩy những cay đắng mà thôi. Người bạn của con đã phải sống cực nhọc, vất vả cũng vì lẽ đó. Bô mẹ Ngân li hôn khi mới sinh ra Ngân, bố bỏ lên Thái Nguyên lấy vợ lẽ được mấy tháng thì bị nghiộn, mẹ thì về nhà chị gái, hai con người ấy để lại đứa con bé bỏng sống với ông bà đã già yếu. Cuộc sống của Ngân rất khổ cực với những nỗi đau chất đầy. Bố Ngân mất vì nhiễm HỈV giai đoạn cuối, người bà quá đau khổ cũng đi theo con. Ngân bơ vơ, lạc lõng, sống cùng với người ông bị dị tật, cuộc sống lại càng thiếu thốn, lam lũ hem. Ngân phải tự đi kiếm sống. Đến nước này rồi mà mẹ Ngân vẫn thờ ơ. Cảnh ngộ éo le đến thế là cùng. Xã hội đang trên đà thay đổi với những hiện đại hoá. Xã hội cũng đang làm thay đổi cả con người. Bây giờ, có một hiện thực rất phổ biến trong suy nghĩ của nhiều người mẹ. Họ nghĩ rằng chỉ cần lo cho con một cuộc sống tiện nghi, giàu có là đủ, họ chỉ cố kiếm thật nhiều tiền mà quên một điều rằng: Những đứa con của họ cần hơn bao giờ hết tình yêu của mẹ dù cuộc sống có khó khăn.
Mẹ ơi, con đã hiểu tình mẫu tử thiêng liêng, đẹp đẽ biết nhường nào. Bởi mẹ đã cho con một tình mẫu tử thực sự. Con thật lòng muốn nói rằng: “Con yêu mẹ, yêu mẹ rất nhiều”. Nếu chỉ có một điều ước, con sẽ ước mãi được ở bên mẹ, “Con sẽ là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ". Con muốn tất cả những đứa con trên thế giới này biết trân trọng, giữ gìn tình mẫu tử cao quý của mình. Bởi lẽ tình mẫu tử từ xưa tới nay và cho đến mai sau vẫn sẽ là thứ tình cảm đẹp nhất trong mỗi con người.
Con chỉ sợ một ngày không có mẹ ở bên con nữa, lúc ấy con biết phải làm sao?
Chúc bạn học tốt!

CÂU1a:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
CÂU1b:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ xở
Giặc dữ cớ sao đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
CÂU1c:
-Tên bài thơ là:Nam Quốc Sơn Hà
- tác giả:Lê thước
CÂU2
-bài thơ thuộc thể thơ:Thất ngôn tứ tuyệt
CÂU3:
-------Nam Đế :vua của nước Nam
-------Thiên Thư :sách trời

A. Mở bài
- Giới thiệu ý kiến
- Dẫn dắt vấn đề
B. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phầm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan (ghi lại cái đã có rồi) mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ.
- Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ.
2. Chứng minh
- Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình (muốn nói một điều gì mới mẻ):
+“Truyện Kiều” của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ;
+ “Lão Hạc”, Nam Cao nói lên niềm yêu mến, cảm phục đối với những người nông dân nghèo khổ mà giữ được phẩm chất tốt đẹp;
+ “Làng” của Kim Lân chẳng những thể hiện cái nhìn yêu mến, trân trọng mà còn nói lên được sự biến chuyển trong nhận thức và tình cảm của người nông dân trong bổi đầu chống Pháp;
+ “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu gửi gắm suy nghĩ, bài học nhân sinh về cuộc đời của mỗi con người.
C. Kết bài
- Đánh giá chung
- Suy nghĩ của bản thân
** Bài viết tham khảo
Cuộc sống này thật đa dạng muôn màu, muôn vẻ với bao bất ngờ và cũng có lúc thật bay bổng như một câu chuyện cổ thần tiên. Và văn chương đã góp một phần không nhỏ vào cái thế giới phong phú, nhiều màu sắc này. Vì vậy mà “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”.
Đối với mỗi người văn chương có những ý nghĩa, cảm nhận khác nhau. Nhưng ai cũng hiểu rằng văn chương là một thứ trừu tượng, ta không thể nhìn thấy hay chạm vào nó mà chỉ có thể lắng nghe và cảm nhận thôi. Văn chương là nơi kết tụ cái tinh hoa của cuộc sống. Văn chương còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng với đời sống con người. Văn chương mở ra cho ta những “chân trời mới”, bồi đắp tình cảm tốt đẹp cho ta, làm giàu thêm cho thế giới tâm hồn ta. Và văn chương khai phá những tình cảm xưa nay ẩn sâu trong trái tim ta và bồi dưỡng những thứ tình cảm ấy thêm lớn hơn nữa.
Vì sao trong tác phẩm “Ý nghĩa văn chương”, nhà văn Hoài Thanh lại nói “Văn chương luyện những tình cảm ta sẵn có”. Vì văn chương dạy, giúp ta hiểu thêm được ý nghĩa, giá trị của tình cảm gia đình là to lớn, là quan trọng thế nào. Giúp cho mỗi lứa học sinh chúng ta thấm thía hơn công lao dưỡng dục của cha mẹ; sự vất vả, những giọt mồ hôi phải rơi xuống của cha mẹ để nuôi chúng ta lớn lên từng ngày. Qua câu ca dao ông cha ta nói ngày xưa: “ Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, ta đã thấy được tình cảm của cha mẹ dành cho chúng ta là vô bến bờ, cha mẹ luôn luôn yêu thương ta, che chở ta mãi mãi.
Văn chương cho ta biết giá trị tình cảm gia đình, và văn chương còn cho ta biết ý nghĩa của tình bạn bè, bằng hữu. Văn chương ngày nay đã có bao nhiêu những tác phẩm nói lên tình bạn thực sự, đẹp đẽ, tri kỉ. Dưới ngòi bút tinh tế của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong văn bản “Bạn đến chơi nhà”, tình bạn đã hiện lên thật giản dị mà cũng thật cao thượng. Tình bạn là 1 thứ tất yếu, tình bạn không cần của cải vật chất. Bạn bè luôn hiểu ta nhất, luôn bên ta, biết ta cần gì,…Qua bài thơ “Bạn đến chơi nhà” mà ta thêm trân trọng tình cảm bạn bè dành cho nhau, một thứ tình cảm tồn tại mãi mãi…
Văn chương giúp ta thấm thía được tình cảm gia đình, thêm trân trọng tình bạn thiêng liêng và giờ văn chương đẩy mạnh tình yêu nước trong tim mỗi con người. Những lời văn sinh động, chất chứa đầy tình cảm thúc đẩy niểm tự hào của ta về quê hương đất nước: vẻ đẹp tiềm ẩn, cảnh sắc quê hương, truyền thống văn hóa đặc sắc, một lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng,… Qua những lời văn miêu tả tinh tế, chân thật trong văn bản “Sài Gòn tôi yêu” hay Mùa xuân của tôi”,… ai mà chẳng tự hào, ngượng mộ vẻ đẹp tự nhiên tiềm ẩn của quê hương Việt Nam ta. Còn qua hai tác phẩm “ Một thứ quà của lúa non: Cốm” và “ Ca Huế trên sông Hương”, một lần nữa ta lại thêm tự hào về nền văn hóa đặc sắc lâu đời của dân tộc ta. Đến khi đọc những tác phẩm “Lòng yêu nước của nhân ta”, “Nam quốc sơn hà”,… ta lại phải khâm phục sức kiên cường, không lùi bước chiến đấu của dân tộc ta, để lại một trang sử hào hùng.
“Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có”. Đó là tác dụng tiếp theo của văn chương đem lại. “ Văn chương là bức tranh muôn màu của cuộc sống giúp cho ta hiểu thêm những sắc màu khác nhau của cuộc đời mà ta chưa từng trải qua”. Chắc bạn hẳn bạn còn nhớ văn bản “Tụng giá hoàn kinh sư” do Trần Quang Khải viết sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. “Tụng giá hoàn kinh sư” như một khúc khải hoàn ca đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm và trong lịch sử văn học Việt Nam. những dòng thơ chân thật, thúc đẩy tinh thần bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm trong mỗi người, gợi cho ta một hào khí chiến đấu oai hùng của cha ông.
Ngược lại với sự mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần chiến đấu trong mỗi người, những lời tâm sự của người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, bất hạnh lúc bấy giờ lại làm ta cảm động; có một sự cảm thông, chia sẻ với thân phận thiệt thòi, khốn khổ của những người phụ nữ ấy. Những bài thơ “ Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “ Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn (bản dịch của Đoàn Thị Điểm),… đã gợi lên trong ta biết bao cảm xúc, những sự đồng cảm với nhân vật trữ tình, để rồi phê phán, lên án chế độ phong kiến xưa.
Trong những hoàn cảnh tuy ta có thể chưa bao giờ trải qua, những qua những lời văn giản dị mà chân thật thì ta cũng có thể hiểu được phần nào cảm xúc của những người rơi vào hoàn cảnh như vậy. Đầu năm lớp 7 này, ta đã được biết đến văn bản “Cuộc chia tay của những con búp bê”, một câu chuyện buồn mà mọi đứa trẻ đều không thể chịu đựng được, có thể đứng dậy một cách dễ dàng sau cú vấp này. Một tuổi thơ buồn bã sẽ kéo dài mãi trong tâm trí mỗi đứa trẻ đã phải trải qua sự chia li của gia đỉnh khi hôn nhân của bố mẹ bị đổ vỡ, mỗi người một nơi, anh chị em phải xa cách, thiếu đi tình cảm của cả bố và mẹ. Và từ đó ta vừa cảm thấy buồn thay cho những đứa trẻ vô tội, còn thơ dại kia mà đã phải chịu đựng nhiều như vậy, mà vừa chê chách những vị phụ huynh vô trách nhiệm với con cái như vậy.
Đọc lại những trang sử phong kiến xưa ,ta một lần nữa lại phải rơi nước mắt, cảm thương cho số phận những người nô lệ ngày ấy. Những gì họ phải trải qua chỉ là đau khổ, bị sai khiến, bóc lột,… không được hưởng những thành mình làm ra, có được một giây phút hạnh phúc,… Từ đó ta cũng phải cho đi một sự cảm thông, chia sẻ với họ, và lại lên án, chê trách chế độ phong kiến thối nát, tồi tàn.
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy văn chương đã tạo ra những phép màu cho cuộc sống, tạo ra tình cảm giữa con người với con người. Văn chương đã bồi dương tâm hồn ta, mở rộng cánh cửa nhân ái của lòng ta, giúp ta hiểu thêm tình đời tình người. Văn chương khơi dậy lòng trắc ẩn trong mỗi người.
Văn chương thật quan trọng đối với cuộc sống. Văn chương là tấm gương phản chiếu cuộc đời thật của con người, giúp thế giới không còn vô tình, khô cằn vì thiếu đi tình thương giữa con người với nhau. Từ đó ta càng phải trân trọng từng dòng thơ, lời văn; yêu mến chúng; đọc nhiều hơn để tâm hồn ta thêm bay bổng, thêm nhiều những tình cảm từ văn chương ban tặng.

Lặng rồi cả tiếng con ve:Nghệ thuật đảo ngữ (đưa tính từ lặng rồi lên đầu câu) nhằm nhấn mạnh cái khắc nghiệt của trưa hè, đến cả con ve cũng “lặng” tiếng rồi vì cái nóng quá oi ả.
-Phép nhân hoá ngôi sao- “thúc” làm cho hình ảnh thơ trở nên đẹp lung linh , phép so sánh ko ngang bằng đã nâng hinh ảnh bà mẹ tảo tần khuya sơm lam lũ lên thật cao quý đẹp đẽ hơn cả những vì tinh tuý,và cũng bất tử .Cách nói ẩn dụ “giấc tròn” ko phỉa chỉ là giấc ngủ của con mà là cuộc sống của con , cuộc đời con luôn có mẹ theo sát bên nâng bước con đi ,, che chở cho con , dánh tất thảy yêu thương cho con.Lòng mẹ thật bao la . tình mẹ thật rộng lớn …
- Mẹ là ngọn gió của con suốt đời:- ngọn gió mát lành làm dịu êm những vất vả trên đường, ngọn gió bền bỉ theo con suốt cuộc đời. Hình ảnh thơ giản dị nhưng giúp ta thấy được tình thương yêu lớn lao, sự hi sinh thầm lặng, bền bỉ suốt cuộc đời mẹ đối với con.

I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài:
1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.
- Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)
- Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.
2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.
2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)
- Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta.
2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)
2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian.
3. Đất nước của ca dao thần thoại
Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.
III. Kết bài
- Khái quát vấn đề
Xem thêm:
Soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm siêu ngắn
Bài mẫu
Bài tham khảo số 1
BÀI LÀM
Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm; Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.
Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo, xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” nhuần nhyễn trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế giới "ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân từ trái tim nồng nàn yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ vành nôi của mẹ, thành hình trong ta từ trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng, giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một giọng điệu hồn hậu, tươi duyên và đằm thắm không ai khác chính nhân dân - tập thể những người lao động - trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiểu sâu sắc của một thanh niên trí tuệ có vốn văn hóa sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu của nhà thơ về đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen, vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện Trầu Cau với tình người nồng hậu, thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu tượng sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước. Hơi thở trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở nào, gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm, những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa, thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân thương, gần gũi qua dáng hình của bà, của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không phải là một hình người khổng lồ xa lạ, hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ câu chuvện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi tóc sau đầu, cách đặt tên người..., và cả tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:
Tay nâng chén muối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau
Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, thấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân dân. Có thể nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật của đoạn thơ, vừa gần gũi, thân quen, vừa huyền ảo, diệu kì tự xa xưa.
Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với kỉ niệm riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm.
Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là chứng nhân ghi dấu kỉ niệm tình yêu:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ, xúc động của tình yêu như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng khuâng của “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với mỗi cá nhân cùa đất nước càng khắc ghi sâu đậm.
Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn lọc chất liệu văn hóa dân gian:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ, nối liền hiện tại và tương lai:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.
Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:
Trong anh và em hôm nay đều có một phần đất nước
Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi, một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày, đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người. Những câu thơ đang từ tính chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ.
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên từ trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút, thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy để mảnh đất mãi màu mỡ, xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ.
Quê hương của Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.
Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân dân” càng sáng lên rạng rỡ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trở nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.
Những câu thơ như trải rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh quan mĩ lệ, kì thú của non sông:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trên mỗi trang thơ với những phát hiện mới mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết... từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn, tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân,... và cả đến những con vật gần gũi thân quen của cuộc sống con người (con cóc, con gà quê hương) cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng những sinh hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết, mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thiên nhiên đất nước hiện lên chính là một phần máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giả khái quát, nâng lên như một suy tư giàu chất triết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sống ông cha.
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ hào hùng của đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.
Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.
Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước. Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm, ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những con người vô danh, hiền lành và giản dị.
Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân, bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què
Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.
Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất nước, về vai trò to lớn và vẻ đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.
Có thể gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã chiết xuất chất liệu văn hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.
Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân. Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ, khi thì là cảm nhận riêng tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một kỉ niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sĩ lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yêu thương đất nước, trân trọng, ca ngợi nhân dân đã tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.
Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia từng thấy được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” mới thể hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của thơ ca chống mỹ. Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm thấm vào từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo và thông minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
Văn học chống Mĩ cũng có những cảm nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc, tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.

Trong thời bình ngày nay, không còn những cuộc chiến tranh, không còn những cuộc hành quân "xẻ dọc Trường Sơn" nên việc các lứa trẻ ít tiếp xúc với không gian, thiên nhiên bên ngoài, do đó những ánh điện đã thay thế ánh trăng, thay thế đi những cảm xúc vốn có của con người khi xưa nên các bạn trẻ dường như không "thấu" được những hàm ý cô đọng của tác giả như những câu thơ "Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ.....". Mặt khác, các bạn trẻ đặc biệt là lứa học sinh có xu hướng thích "động tay động chân" nên khi đi qua một nhành cây thì bẻ, thích chọc tổ chim, chọc tổ ong,....những hành động đó không chỉ là sai lầm mà là một tội lỗi, tội lỗi với pháp luật và cả thiên nhiên.
Gợi ý :
Nhận xét về quan niệm của tác giả thể hiện trong hai dòng thơ: Hai dòng thơ ngắn gọn, hàm súc mà thấm thía sâu sắc ơn tình, ơn nghĩa về công lao to lớn của mẹ dành cho con. Lời ru của mẹ chứa đựng những điều hay lẽ phải, những kinh nghiệm, bài học về cách ứng xử, cách sống đẹp ở đời; sữa mẹ nuôi dưỡng thể xác, lời ru của mẹ nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta…
giúp mk vs