Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Cuộc kháng chiến | Cách đánh giặc |
Kháng chiến chống quân Tống (981) |
- Đường thủy: Đóng cọc ở sông Bạch Đằng. - Đường bộ: Truy kích tiêu diệt nhiều sinh lực địch. |
Kháng chiến chống quân Tống (1075 - 1077) |
- Giai đoạn 1: Thực hiện chủ trương "Tiến công trước để tự vệ". - Giai đoạn 2: Xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. |
Kháng chiến chống quân Mông - Nguyên (1285 - 1288) | - Thực hiện chủ trương "vườn không nhà trống". |

Câu 1:
- Tóm tắt Cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2 của Nhà Lý (1075-1077)
Sau thất bại lần thứ nhất (năm 981), nhà Tống chưa từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Từ năm 1068, nhà Tống đã ráo riết chuẩn bị xâm lược nước ta để giải quyết khó khăn trong nước và gây thanh thế với các nước láng giềng.
Lý Thường Kiệt được triều đình giao cho chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược được chia làm 2 giai đoạn.
1. Giai đoạn thứ I (1075)
a. Diễn biến
- Tháng 10- 1075, Lý Thường Kiệt và Tông Đản chỉ huy 10 vạn quân, chia làm 2 đạo tấn công vào đất Tống.
+ Mục tiêu: kho lương thành Châu Ung
+ Đường bộ do Thân Cảnh Phúc, Tông Đản chỉ huy quân dân miền núi.
+ Lí Thường Kiệt chỉ huy quân thuỷ đổ bộ vào Châu Liêm, châu Khâm
+ Lý Thường kiệt đã cho yết bảng nói rõ mục đích cuộc tiến công tự vệ của mình.
- Sau 42 ngày đêm quân ta đã làm chủ thành Ung Châu, tướng giặc phải tự tử.
b. Ý nghĩa
Làm thay đổi kế hoạch và làm chậm lại cuộc tấn công xâm lược của nhà Tống vào nước ta
2. GIAI ĐOẠN THỨ HAI (1076 – 1077)
a. Diễn biến
- Cuối năm 1076, 10 vạn quân Tống, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy kéo vào nước ta; 1 đạo quân do Hoà Mâu theo đường biển tiếp ứng.
- Tháng 01/1077, quân Tống vượt ải Nam Quan qua Lạng Sơn tiến vào nước ta, nhà Lý đánh nhiều trận nhỏ để cản bước tiến của giặc.
- Lý Kế Nguyên đã mai phục và đánh 10 trận liên tiếp ngăn bước tiến đạo quân thủy của giặc.
b. Kết quả: Quân Tống đóng quân ở bờ bắc sông Cầu không lọt vào sâu được.
- Cuộc chiến đấu trên phòng tuyến Như Nguyệt:
Diễn biến:
- Quách Quỳ cho quân vượt sông đánh phòng tuyến của ta nhưng bị quân ta phản công quyết liệt làm chúng không tiến vào được.
- Cuối xuân 1077 Lý Thường Kiệt cho quân vượt sông bắt ngờ đánh vào đồn giặc.
Kết quả:
+ Quân giặc “Mười phần chết đến năm sáu phần”.
+ Quách Qùy chấp nhận giảng hòa và rút quân về nước.
Nguyên nhân - Ý nghĩa:
+ Sự ủng hộ tinh thần đoàn kết của quân dân ta
+ Tài chỉ huy của Lý Thường Kiệt
+ Là trận đánh tuyệt vời trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
+ Củng cố nền độc lập tự chủ của dân tộc.
+ Đập tan mộng xâm lược Đại Việt của nhà Tống.
Câu 2:
Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông (1258, 1285, 1288) của quân và dân Đại Việt là bản anh hùng ca trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Nó đã góp phần phát triển rực rỡ nền nghệ thuật quân sự nước nhà. Trong đó, “thủy chiến” là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc.
Trong vòng 30 năm ở thế kỷ XIII, đế quốc Nguyên - Mông đã ba lần tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, nhưng chúng đều chuốc lấy thảm bại, bởi lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần đoàn kết và nghệ thuật quân sự tài tình của quân và dân Đại Việt, dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần. Điều đặc biệt lý thú là, những trận thủy chiến nơi sông nước của quân và dân nhà Trần đều là những đòn then chốt, quyết định thắng lợi của mỗi cuộc kháng chiến. Chúng ta biết, sức mạnh vượt trội của quân Nguyên - Mông là kỵ binh, với ưu thế cơ động nhanh, tiến công mạnh. Khi giao chiến, kỵ binh Nguyên - Mông thường ồ ạt xông thẳng vào đội hình đối phương. Nếu không thắng ngay được từ đợt tiến công đầu thì sẽ có các thê đội kỵ binh kế tiếp. Ngoài ra, quân Nguyên - Mông còn thường dùng lối đánh vu hồi, hai bên sườn, tổ chức tiến công cùng lúc từ nhiều hướng, v.v. Chính nhờ vào đội quân kỵ binh thiện chiến ấy, đế quốc Nguyên - Mông đã tung hoành khắp lục địa Á - Âu, thiết lập ách thống trị từ Thái Bình Dương sang đến Địa Trung Hải. Tuy nhiên, khi xâm lược Đại Việt, điểm mạnh của chúng đã không thể được phát huy, bởi địa hình phức tạp, gồm nhiều sông ngòi, đầm hồ,... của nước ta. Hơn nữa, người dân Đại Việt lại rất thông thạo sông nước, giỏi bơi lội, thông luồng lạch, giỏi dùng thuyền bè. Trước khi trở thành vương triều Đại Việt, nhà Trần vốn là một tập đoàn đánh cá và làm muối ở vùng hạ lưu sông Hồng, ven biển hai tỉnh Thái Bình và Nam Định ngày nay. Vì thế, vua tôi nhà Trần càng hiểu sâu sắc hơn về đường thủy và quân thủy trong tổ chức quân đội và vai trò của nó trong chiến tranh.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ Nhất (1258), để tránh sức mạnh ban đầu và sở trường của giặc, quân và dân nhà Trần đã tiến hành rút lui chiến lược sau khi dàn trận đánh địch ở Bình Lệ Nguyên (Phú Thọ) không thành. Sau đó, đưa cả dân rút khỏi kinh đô Thăng Long, thực hiện kế sách “thành không, nhà trống”, khiến cho kế hoạch bao vây, đánh tan quân ta của địch bước đầu bị thất bại. Đồng thời, triển khai các điểm chốt chặn trên các trọng điểm, phá cầu Phù Lỗ, làm cho quân Nguyên - Mông không truy đuổi kịp vua Trần; trong đó có sử dụng một bộ phận quân chủ lực cùng các lực lượng dân binh, thổ binh đánh tập kích vào cả trước mặt, sau lưng và hai bên sườn quân địch, kết hợp với kế “thanh dã” khiến cho địch từ tập trung phải chuyển sang phân tán đối phó và luôn bị uy hiếp, căng thẳng, mệt mỏi, thiếu lương thảo. Đến khi chúng đến được Thăng Long thì chỉ còn là một kinh thành trống không, tung quân ra xung quanh để cướp bóc lương thảo thì bị dân chúng các địa phương dựa vào các trận địa làng, xã chặn đánh quyết liệt. Mới chiếm Thăng Long được 9 ngày, quân Nguyên - Mông đã hoảng hốt, mất ý chí chiến đấu. Chúng không dám đóng quân trong thành Thăng Long mà phải chọn bến Đông Bộ Đầu bên dòng sông Nhị Hà (sông Hồng) để hạ trại. Đây chính là thời cơ thuận lợi để quân và dân nhà Trần mở những trận đánh then chốt giành thắng lợi. Đêm 29-01-1258, đoàn binh thuyền nhà Trần do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy đã bí mật cơ động lực lượng từ Thiên Mạc (Khoái Châu, Hưng Yên) theo sông Hồng tiến về Thăng Long, triển khai đội hình tập kích vào doanh trại quân địch. Bị đánh bất ngờ, quân địch hết sức lúng túng, không kịp đối phó, bị tổn thất nặng, phải tháo chạy khỏi kinh thành Thăng Long. Trận Đông Bộ Đầu là trận quyết chiến chiến lược, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược lần thứ Nhất của quân và dân Đại Việt, đẩy kẻ thù lâm vào tình thế khó khăn, buộc phải rời khỏi Thăng Long sau 9 ngày chiếm đóng. Sở dĩ, trận tập kích Đông Bộ Đầu giành thắng lợi chỉ trong một đêm là do quân và dân nhà Trần đã tận dụng đường sông để cơ động và triển khai lực lượng một cách bí mật, bất ngờ. Đây là lối đánh tập kích đường sông hết sức tài giỏi của quân và dân ta, nhằm lúc địch rời khỏi lưng ngựa, không có lực lượng thủy chiến yểm trợ, nên đã giành thắng lợi to lớn.
Bị thất bại trong hai lần phát động chiến tranh xâm lược Đại Việt, nhà Nguyên quyết định: đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Nhật Bản, tập trung mọi nhân tài, vật lực vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ Ba (1288). Theo đó, ngoài lực lượng kỵ binh và bộ binh hùng hậu, chúng còn huy động khoảng 700 chiến thuyền các loại, trong đó có 70 thuyền vận tải lớn chở theo 17 vạn thạch lương, v.v. Theo dõi, nắm chắc âm mưu xâm lược của địch và với kinh nghiệm của hai cuộc kháng chiến trước đây, quân và dân nhà Trần bước vào cuộc kháng chiến lần thứ Ba trong tư thế hoàn toàn chủ động. Khi được vua Trần Nhân Tông hỏi: Năm nay giặc đến ra sao? Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã khẳng khái đáp rằng, năm nay đánh giặc nhàn. Sở dĩ có sự khẳng định đó, bởi Ông đã nắm chắc rằng, địch chấp nhận giao chiến với ta trên sông nước là chúng đã từ bỏ sở trường và bị buộc phải đánh theo cách thủy chiến sở trường của Đại Việt. Theo phương lược đó, Trần Quốc Tuấn đã tổ chức những trận đánh ngăn chặn, tiêu hao địch,… rồi rút lui để bảo toàn lực lượng (từ tháng 12-1287 đến tháng 3-1288) cùng với những hoạt động nhằm đẩy địch vào “cạm bẫy” của Ông. Cùng với đó, sử dụng đạo binh thuyền của Trần Khánh Dư chủ động tập kích tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bằng thủy chiến, làm mất chỗ dựa của cả đội quân xâm lược. Trong khi đó, quân ta tập trung vây hãm đạo trung quân của Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, khiến chúng đói khát, ốm đau, hoảng loạn tinh thần, buộc phải tìm cách rút quân về nước bằng hai hướng thủy, bộ. Như đã định liệu, Bộ Thống soái nhà Trần chọn đòn quyết định đánh vào đạo quân rút theo đường thủy của địch ở Bạch Đằng, nơi quân ta quen sông nước và đã chuẩn bị sẵn, nơi phối hợp tốt giữa thủy quân và bộ binh của ta, nơi địch phải đi theo đường độc đạo mà kỵ binh không thể thi thố được. Còn truy đuổi, đón đánh đạo quân của Thoát Hoan rút theo đường bộ thì giao cho quân của các vương hầu, tôn thất và các dân binh trên hướng Vạn Kiếp - Lạng Sơn. Thực tiễn cho thấy, đòn đánh địch sấm sét ở cửa sông Bạch Đằng không dừng lại ở việc buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta mà còn điều được địch đến địa điểm và thời gian ta muốn để phát huy tối đa mọi nhân tố và các lực lượng tham gia cùng lực lượng thủy binh tiêu diệt địch, góp phần quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến lần thứ Ba.Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm quý báu đó, trong cuộc...
Câu 1:
* Bảng các cuộc chiến tranh xâm lược dưới thời Lý - Trần
Cuộc kháng chiến |
Thời gian |
Lượng lượng quân xâm lược |
Chống quân xâm lược Tống |
1075 - 1077 |
30 vạn quân Tống |
Kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ |
1258 |
hơn 3 vạn quân Mông Cổ |
Kháng chiến lần thứ hai chống quân xâm lược Nguyên |
1285 |
50 vạn quân Nguyên |
Kháng chiến lần thứ ba chống quân xâm lược Nguyên |
1287 - 1288 |
hơn 30 vạn quân Nguyên |
Câu 2: - Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước, chặn thế mạnh của giặc.
- Tấn công quyết liệt.
- Đánh phủ đầu quân xâm lược khi chúng chưa kịp hành động, phản công nhanh chóng và quyết liệt ngay khi bị kẻ thù tiến công.
- Sự kết hợp khéo léo giữa tiến công và phòng ngự tích cực.
- Vận dụng tài tình sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với công tác chính trị và hoạt động ngoại giao. Chúc bạn học tốt!

Thời gian | Sự kiện |
1/1258 | Chống quân xâm lược Mông Nguyên lần I |
29/1/1258 | chiến thắng xâm lược Mông nguyên lần I |
Năm 1279 | Nhà Tống bị tiêu diệt |
1/1285 | Thoát Hoan chỉ huy 50 vạn quân tiến vào nước ta ( xâm lược lần II) |
12/1287 | Quyết tâm xâm lược nước ta lần III |
4/1288 | chiến thăng Bạch Đằng |

Diễn biến:-Cuối năm 1076,quân Tống tấn công vào nước ta gồm 10 vạn bộ binh,1 vạn ngựa,20 vạn dân phu.
-Tháng 1 năm 1077,10 vạn quân do Quachs Qùy và Triệu Tiết chỉ huy vượt qua biên giới.
-Ta đánh nhiều trận nhỏ cản địch.
-Lý Kế Nguyên đã đánh 10 trận liên tiếp để cản thủy quân.
*)Trên sông Như Nguyệt:-Quachs Qùy cho quân vượt đánh phòng tuyến,ta phản công quyết liệt.
-Cuối Xuân năm 1077,Lý thường Kiệt cho quân đánh bất ngờ vào đồn giặc
Kết quả: Giặc đi 10 phần chết 5;6 phần . Địch chấp nhận giảng hòa và rút về nước.

I. CHIẾN DỊCH ĐÁNH TỐNG 1075
Chiến dịch đánh Tống 1075 là tên gọi của chiến dịch do Lý Thường Kiệt của nhà Lý phát động nhằm tấn công quân Tống ở 3 châu dọc theo biên giới Tống-Việt năm 1075-1076.
Hoàn cảnh lịch sử
Nước Tống dưới thời Tống Thần Tông bị sự uy hiếp của các Liêu và Hạ phương Bắc, phải cống nộp nhiều của cải và bị cắt nhiều phần lãnh thổ. Tể tướng Vương An Thạch rất chú ý đến phương Nam và muốn lập công to ở ngoài biên, tâu lên vua Tống rằng: "Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thànhbị thất bại, quân không còn nổi một vạn, có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ.
Tri châu Tiêu Chú ở Ung Châu đã có lần dâng sớ về triều xin đánh Đại Việt kẻo sau có đại họa. Nhưng Tiêu Chú bị bãi chức. Khi họ Vương lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì ông là người am hiểu mọi vấn đề Đại Việt đang nằm trong Kế hoạch mở rộng xuống phương Nam của Vương tể tướng. Dự án ấy không riêng lo khuếch trương về phương Nam mà còn lấy khí thế để mở rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương Bắc nữa (đánh Liêu và Hạ).
Thái độ của triều Lý
Nhà Tống để ý đến thái độ của Lý triều thì thấy nhà Lý có vẻ ngang ngạnh nên sinh nghi. Sự thật Lý triều đã nhân cuộc đánh phá của Nùng Trí Cao năm 1054 mà bành trướng ngầm lãnh thổ của mình bằng cách xúi biên dân người Việt lấn đất và sinh sự trong một thời gian khá dài.
Sau đó năm 1060 quan Lạng châu mục là Thân Thiệu Thái đem binh vào huyện Nhử Ngao ở châu Tây Bình thuộc địa giới nhà Tống để bắt người bỏ trốn. Bắt sống được nhóm ấy nhưng có lẫn cả Dương Lữ Tài là một viên quan nhà Tống và nam, nữ, trâu, ngựa không thể đếm xuể. Nhà Tống sai quan Lại Bộ Thị Lang là Dư Tĩnh đến Ung Châu thảo luận về việc ấy. Vua lại sai Bùi Gia Hựu tới Ung Châu bàn nghị. Dư Tĩnh đem nhiều của đút lót Bùi Gia Hựu và gởi thư cho Hựu mang về, xin vua trả lại Dương Lữ Tài. Nhà vua không xét.
Tống triều nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà từ lâu Tống coi như kẻ thù trong suốt mười năm. Tiêu Chú sau khi được phục hồi liền tới Quế Châugiao dịch với các tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền Đống được hiểu lúc này Lý triều thắngChiêm Thành, cướp thêm được 3 châu của người Chiêm, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt. Tiêu Chú có ư trù trừ. Nhưng đến năm 1072 vua Thánh Tông qua đời, Dương Hậu và Ỷ Lan giành nhau quyền vị.
Thái hậu Linh Nhân (Ỷ Lan) có tính hay ghen ghét, thấy bà đích mẫu (tức bà Thái hậu họ Dương ở cung Thượng Dương) được tham dự việc triều chính mới bảo vua rằng: "Mẹ già khó nhọc nuôi con để có ngày nay, đến lúc phú quý thì người khác hưởng, ăn ở như thế thì đặt ***** già này vào chổ nào?".
Nhà vua tuy nhỏ bé nhưng cũng có hiểu biết chút ít rằng, mình không phải là con của Thái hậu Thượng Dương, bèn đem Thái hậu Thượng Dương và 72 người thị nữ ở cung Thượng Dương rồi bức bách bắt đem chôn sống theo vua Thánh Tông.
Vua Lý Nhân Tông là thái tử Càn Đức lúc này mới 7 tuổi, trong triều hai đại thần văn võ là Lý Đạo Thành và Lý Thường Kiệt chính kiến bất đồng. Tống triều hỏi ý Tiêu chú nhưng Tiêu Chú không tán thành cuộc Nam chinh. Tiêu Chú đáp: "Xưa tôi cũng có ý đấy. Bấy giờ quân khê động một người ta có thể địch được mười, khí giới sắc và cứng; người thân tín thì tay chỉ, miệng bảo là điều khiển được. Nay hai điều ấy không như trước; binh giáp không sẵn sàng, người tin chết quá nửa. Mà người Giao Chỉ lại sinh tụ, giáo hối đã mười lăm năm rồi. Bây giờ, nói quân Giao Chỉ chưa đầy một vạn thì sợ sai.
Trái lại, Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi lại rất sốt sắng đánh Đại Việt. Vua Tống liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú làm Quảng Tây kinh lược sứ năm 1073 lo việc xuất quân.
Việc thứ nhất của Thẩm Khởi là đặt các doanh trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai là động viên 52 động thuộc Ung Châu sung công các thuyền chở muối để tập thủy chiến. Sợ Đại Việt biết, ông cấm hẳn mọi việc buôn bán, giao dịch giữa các biên dân Việt Hoa.
Việc thứ hai của Thẩm Khởi là phủ dụ các tù trưởng lệ thuộc về Lý triều theo Tống được Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn, giáp Thất Khê hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng Thiện Mỹ và việc này đă đến tai người Việt. Công việc đang tiến triển thì tháng ba năm 1074, Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối Thẩm Khởi về các hoạt động kể trên. Thêm nữa, Thẩm Khởi đă lầm lỗi trong nhiều việc nên bị đổi đi Đàm Châu và chính Vương An Thạch cũng không tin rằng Thẩm giải quyết nổi vấn đề Đại Việt. Bấy giờ vua Tống trách Thẩm Khỉ vì tội tự tiện nhận bọn Nùng Thiện Mỹ mà không hỏi, cũng không đồng ý cho Lưu Kỷ nhập Tống vì sợ nhà Lý giành lại.
Ngoài ra, lúc này Tống đang mắc vào chuyện chiến tranh với Liêu, Hạ chưa xong nên việc đánh Đại Việt phải ngừng lại.
Năm 1073 Lý Thường Kiệt đã tập trung nhiều quân ở biên giới, lộ vẻ đánh vào đất Tống.
Vua Tống được tin nhà Lý tụ binh, báo gấp cho Tô Giám là viên quan coi Ung Châu dặn rằng nếu Giao Chỉ phạm đến Ung Châu thì phải kiểm quân cố thủ, không được khinh địch (1074).
Đầu năm 1075, Tể tướng Vương An Thạch cắt đất cho nước Liêu, nhà Tống tạm yên, có thể tăng cường binh lực cho Lưu Di. Di cho đóng chiến hạm, dùng thuyền muối để tập thuỷ binh... và cấm người Việt sang buôn bán để tránh sự thám thính.
Tình hình đang căng, Lý Thường Kiệt lại đưa biểu tới triều Tống đòi lại Nùng Thiện Mỹ (thủ lãnh châu Ân Tình đã theo Tống) và bộ thuộc để trừng trị. Vua Tống từ chối trả Thiện Mỹ cho nhà Lý.
Đại Việt xét đánh trước có lợi hơn và tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải qua Ung Châu theo đường bộ và qua các cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu theo đường thủy nên họ quyết tâm phá trước các cứ điểm này của người Tống.
Diễn biến
Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm được trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận trung tuần tháng 11 mới tới được triều đình Biện Kinh của Tống tức gần tháng rưỡi. Nhưng người Tống mới chỉ nghĩ là những việc cướp nhỏ mà thôi, Tống Thần Tông còn bảo Lưu Di kể tên những người có chiến công và giúp đỡ những người có nhà bị cướp và bị đốt.
Tháng 10 năm 1075 Thường Kiệt tập trung thủy quân Đại Việt ở Đồ Sơn (vịnh Hạ Long) theo lối sau các núi đá mà tiến vào Khâm Châu; còn đi đánh Ung Châu (Nam Ninh) lục quân của quân Lý cũng chia nhiều đường:
Từ Quảng Nguyên theo bờ sông Tả tiến đánh trại Thái Bình.
Từ hai châu Tô, Mậu vượt núi qua Lộc Châu, Cổ Vạn, Tư Lăng, Thượng Tứ.
Từ châu Quảng Lăng tiến qua Thái Bình, Bằng Tường, Tư Minh và trại Vĩnh Bình.
Về mặt địa lý thì các vùng về phía Tây Bắc biên giới hai nước lúc này chưa định rõ, các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu ngày nay cũng không phải đất của nhà Lý, cũng không thuộc triều Tống. Biên giới mà Tống-Lý trực tiếp giao nhau là Ung Châu gồm các trại Thiên Long, Cổ Vạn tiếp giáp Vĩnh An, Tô Mậu (Quảng Ninh); trại Vĩnh Bình tiếp một phần Quang Lang (Lạng Sơn, Lạng Châu) và một phần Quảng Nguyên (Cao Bằng); các trại Thái Bình và Hoành Sơn tiếp Quảng Nguyên. Khâm Châu sát trại Thiên Long và tiếp Vĩnh An của nhà Lý ở cửa Để Trạo.
Theo kế hoạch, nếu thủy quân chiếm được Khâm Châu thì tiến thẳng lên Ung Châu. Đề phòng người Tống xâm nhập vào đất Việt, quân Đại Việt cũng chia ra đóng ở nhiều căn cứ theo dọc đường biên giới. Đại khái quân hạ du của Lý đóng ở Vĩnh An và thượng du thì theo dọc biên thùy từ các châu Quảng Nguyên, Quảng lăng, Tô Mậu. Tổng số quân Đại Việt có từ 8 đến 10 vạn.
Cùng theo quân Lý tiến công vào Tống lần này, quân số khê động không rõ, chỉ biết rằng quân man đi trận, mang cả vợ con đi theo. Có người nói với Vương An Thạch: "...Khi Giao Chỉ vào cướp, quân có sáu vạn, trong đó có nhiều đàn bà, trẻ con. Man dân kéo hết cả nhà di theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà..." để chỉ quân khê động.
Về phía nhà Tống thì quân số cả nước lúc này chỉ khoảng 380.000 người và chủ lực tinh nhuệ lại tập trung ở phía Bắc nơi phải chịu sự đe dọa từ các lực lượng xâm lăng của Hạ và Liêu. Quân Tống ở phương Nam chiến đấu kém hơn nhiều.
Phòng ngự Ung Châu gồm hai đoàn. Mỗi đoàn có 5000 quân. Giữ biên thuỳ Đại Việt, có một tướng lại chia làm hai phần: 2000 quân đóng ở thành Ung, 3000 chia đóng ở 5 trại tiếp giáp Đại Việt: Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long.
Khâm Châu và Liêm Châu sát biển tiếp giáp Quảng Ninh và Lạng Sơn ngày nay, đặt viên Phòng biên tuần sứ cai quản đoàn quân Đằng Hải để hợp với quân của hai viên tuần kiểm, không quá 500 người, đóng ở hai trại: Như Tích giáp biên thuỳ châu Vĩnh Anh và Để Trạo ở cửa sông Khâm Châu.
Thường Kiệt đem thủy quân đánh vào căn cứ quân sự của Tống ở ven bờ biển thuộc Quảng Đông. Cùng một lúc Tôn Đản phụ trách lục quân chia ba đường kể trên đánh vào Quảng Tây, quấy rối các trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn trên tiền tuyến của Ung Châu. Hàng rào này bị đổ mặc dầu quân Tống xuất toàn lực cứu cấp nhau và chống đỡ các miền Tây và Tây Nam. Nhiều chúa trại bị tử trận (chúa trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình v.v.) Mặt Đông Nam thiếu sự phòng bị. Quân Tống bị đánh bất ngờ ở địa điểm này và tất nhiên quân Đại Việt phải đánh mạnh vào đây hơn hết.
Về phía Khâm Châu và Liêm Châu quân Tống hoàn toàn bị bất ngờ, ngày 30 thág 12 năm 1075 Khâm châu bị chiếm. Ba ngày sau Liêm châu cũng mất, chúa các trại Như Tích và Để Trạo đều tử trận. Viên coi Khâm Châu là Trần Vĩnh Thái trước đó đã có người báo cho là Giao Chỉ sắp vào đánh, nhưng Thái không tin, đến khi chiến thuyền của Lý đã tới đến nơi, Thái vẫn còn bày rượu uống. Quân Lý đột nhập vào thành không mất người nào, bắt Vĩnh Thái và bộ hạ, lừa lấy của cải rồi đem giết hết.
Nhìn chung quân Lý với lực lượng áp đảo tiến ào ạt rồi thẳng lên Ung Châu không gặp một sức kháng cự nào đáng kể. Ở Liêm châu, vì đã biết tin Khâm châu mất nên có phòng bị đôi chút nhưng quân Lý ào ạt kéo vào, quân số lại đông hơn nhiều nên chiếm Khâm Châu rồi bắt tới 8.000 tù binh dùng để đưa đồ vật cướp được xuố...

Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta
- Vào những năm 70 của thế kỷ XI, trong lúc Đại Việt đang phát triển thì nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng, phía bắc bị người Liêu, Hạ xâm lấn, trong nước nông dân nổi dậy ở nhiều nơi. Vì vậy, để giải quyết khó khăn về kinh tế – xã hội trong nước và bành trướng thế lực, nhà Tống đã xâm lược nước ta
- Nhà Tống ban hành lệnh cấm buôn bán ở biên giới , dụ dỗ các tù trưởng dân tộc, xúi giục Chămpa đánh lên phía nam với mục đích làm suy giảm lực lượng của nhà Lý.
Nhà Lý chủ động tấn công để phòng về
Sự chuẩn bị của nhà Lý
- Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược tống lần 2, nhà Lý tăng cường lực lượng quốc phòng, cử Lý Thường Kiệt là chỉ huy cuộc kháng chiến
- Lý Thường Kiệt chủ trương : ”tiến công trước để tự vệ”, ông nói: “Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc”
- Các tù trưởng đánh lại các cuộc quấy phá của nhà Tống
- Ở phía Nam, đánh bại ý đồ phối hợp của nhà Tống và Chăm pa
Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống
- Mục tiêu của quân ta: Đánh vào căn cứ xuất phát, địa điểm tập trung lương thực, vũ khí của nhà Tống bao gồm: thành Ung Châu, Châu Khâm, Châu Liêm
- Vào cuối năm 1075, 10 vạn quân ta , chia làm 2 đạo tiến vào đất Tống:
+ Đạo quân bộ vượt biên giới đánh lên thành Ung Châu
+ Lý Thường Kiệt chỉ huy quân thủy, đổ bộ vào Châu Khâm rồi từ đó tiến về phía thành Ung Châu.
- Trên đường tiến quân, ta treo bảng nói rõ mục đích của mình là tự vệ chứ không phải xâm lược, nhờ đó mà tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc
- Sau 42 ngày đêm công phá, quân ta chiếm được thành, sau đó rút quân về và chuẩn bị phòng tuyến chặn địch ở trong nước.
Ý nghĩa: là một đòn phủ đầu làm cho quân Tống hoang mang, bị động, từ đó làm chậm lại cuộc tấn công xâm lược Đại Việt của Nhà Tống
Giai đoạn thứ II (1076-1077)
Kháng chiến bùng nổ
Sự chuẩn bị của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống giai đoạn II
- Sau khi rút quân khỏi thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt bố trí quân mai phục ở biên giới, cử Lý Kế Nguyên giữ vùng biển Quảng Ninh để chặn quân thủy.
- Xây dựng tuyến phòng vệ Sông Cầu (sông Như Nguyệt). Đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây (Trung Quốc) và Thăng Long. Việc chọn phòng tuyến Như Nguyệt sẽ thuận lợi cho ta phòng thủ và khó cho địch khi tiến công.
Diễn biến của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II
Cuối năm 1076 quân Tống tấn công nước ta bằng 2 cánh quân thủy, bộ:
- Quân bộ bao gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu do Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm đầu vượt qua ải Nam Quan vào Lạng Sơn bị Thân Cảnh Phúc chặn đánh phải dừng lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt
- Quân thủy do Hòa Mâu dẫn đầu theo đường biển vào tiếp ứng cho quân bộ nhưng bị Lý Kế Nguyên mai phục đánh bại.
Kết quả của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II: Quân Tống đóng quân ở bờ bắc sông Như Nguyệt, không tiến vào sâu được
Cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt
Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II trên phòng tuyến Như Nguyệt
- Quách Quỳ cho đóng bè 2 lần vượt vượt sông nhưng bị quân ta phản công phải lùi về bờ bắc.
- Lý Thường Kiệt cho người vào đền bên sông ngâm bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” để khích lệ tinh thần quân sĩ
- Quân Tống chuyển sang củng cố phòng ngự, mệt mỏi, lương thảo cạn dần, lòng quân chán nản, bị động.
- Cuối xuân năm 1077, quân Lý Thường Kiệt, bất ngờ vượt sông tấn công vào trại giặc.
Kết quả cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II
Quân Tống thua to, mười phần chết năm sáu phần, Quách Quỳ tuyệt vọng giảng hòa, chấp nhận rút lui, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống kết thúc.
Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II
- Tinh thần đoàn kết của dân tộc ta
- Tinh thần chủ động, tích cực trong kháng chiến và có sự lãnh đạo tài tình của Lý Thường Kiệt
- Đây là một trận đánh tuyệt vời trong lịch sử dân tộc ta
- Củng cố nền độc lập của Đại Việt
- Đập tan âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống
Hai lần xâm lược, quân Tống đều đại bại bởi các vị tướng đại tài và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống đã đem lại những kinh nghiệm quý báu cho nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.

do tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất và lòng tự cường dân tộc của quân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai, Lý Thường Kiệt đã từ bỏ danh vọng bổng lộc, xin triều đình mời Lý Đạo Thành về Thăng Long nhậm chức Tể tướng, còn ông chỉ tổ chức kháng chiến mà không tham gia các chức vụ trong vương triều. -Thứ hai, là do khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc. Trong cuộc kháng chiến, nhân dân ta đã nhất trí một lòng xung quanh triều đình hoặc bộ tham mưu cùng chung sức đánh giặc. - Thứ ba, là sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của các tướng lĩnh chỉ huy mà tiêu biểu là Lý Thường Kiệt. - Thứ tư, nguyên nhân khách quan : khí hậu nóng nực ở phương Nam là một trở lực lớn đối với quân xâm lược ; địa hình của đất nước ta không phù hợp với sự di chuyển và chiến đấu của quân Tống ; việc tiếp tế của giặc gặp nhiều khó khăn, khiến địch lúng túng, tinh thần bị dao động...
Nguyên nhân thắng lợi
-Thứ nhất, là do tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất và lòng tự cường dân tộc của quân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai, Lý Thường Kiệt đã từ bỏ danh vọng bổng lộc, xin triều đình mời Lý Đạo Thành về Thăng Long nhậm chức Tể tướng, còn ông chỉ tổ chức kháng chiến mà không tham gia các chức vụ trong vương triều.
-Thứ hai, là do khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc. Trong cuộc kháng chiến, nhân dân ta đã nhất trí một lòng xung quanh triều đình hoặc bộ tham mưu cùng chung sức đánh giặc.
- Thứ ba, là sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của các tướng lĩnh chỉ huy mà tiêu biểu là Lý Thường Kiệt.
- Thứ tư, nguyên nhân khách quan : khí hậu nóng nực ở phương Nam là một trở lực lớn đối với quân xâm lược ; địa hình của đất nước ta không phù hợp với sự di chuyển và chiến đấu của quân Tống ; việc tiếp tế của giặc gặp nhiều khó khăn, khiến địch lúng túng, tinh thần bị dao động...