K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:Thổn thức gió đồng(Dương Giao Linh) Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Thổn thức gió đồng

(Dương Giao Linh)

Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam là dì ruột của Lâm, vì thương mẹ mà dì phải chia tay với người mình yêu để lấy chồng gần (một ông chủ xưởng đóng tàu thuyền), làm dâu được một năm thì dì xách quần áo bỏ về làng vì không thể sống với con người độc ác đó. Người làng bàn tán. Sau đó, dì Lam bỏ đi biệt xứ.

[...] Tôi trở lại với ruộng đồng, nơi những mảnh ruộng ít ỏi còn lại một năm hai vụ gieo cấy. Người làng tôi từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa và trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án. Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn. Nhưng sao tôi vẫn thấy đầy bất an khi đi giữa làng quê mình tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè. [...]

Mẹ tôi đêm nào cũng đóng cửa ngồi tết chổi rơm đến muộn. Sớm mai mang ra chợ bán cũng đủ tiền mua thức ăn qua ngày. Tôi thương đôi bàn tay gầy rặt những xương của mẹ. Qua những vụ mùa mà vẫn còn vương mùi rơm rạ. Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm. Còn trong ngôi nhà tôi, mọi thứ dường như vẫn thế. Vẫn không gian bình lặng và an yên, như mạch nước ngầm âm ỉ chảy. […]

Tiếng dép lẹp kẹp dừng trước khoảng sân ngập nắng:

– Lâm!

Tôi ngẩng đầu lên. Trước mặt tôi là người đàn bà mảnh khảnh, hai gò má nhô cao lưa thưa những đốm tàn nhang. Đôi mắt to đen nhìn tôi.

Tôi thảng thốt:

– Dì Lam!

Dì đứng đó, không chạy lại xoa đầu tôi như ngày bé nữa. Có lẽ vì tôi đã cao lớn lắm rồi. Giờ dì không còn coi tôi như một thằng bé buổi sáng dì dắt ra đồng bắt cua, đêm đêm ôm vào lòng đọc truyện cho nghe nữa. Sau mấy phút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra đứng cạnh dì là một bé gái mặc áo hoa đỏ, thắt hai bím nơ xinh xắn đang tròn xoe mắt nhìn vào tôi.

– Chào anh Lâm đi con!

Con bé ôm hai chân mẹ. Dì Lam bế nó lên, thơm thơm vào má con rồi quay ra tôi. Giọng dì chầm chậm nhưng rõ từng từ, giống như cái đêm tôi gặp dì ngoài cánh đồng:

– Dì sinh em trong Nam đấy. Tên nó là Cải, hoa cải bên sông làng mình đấy Lâm!

Tôi cười với Cải. Dì đặt tên em nghe cũng buồn quá. Tôi dẫn dì ra giếng, kéo gàu nước đổ vào chậu thau. Dì Lam vốc nước rửa mặt rồi rửa cho Cải. Tôi không hỏi dì về năm tháng đã qua. Nhìn dì vui với đứa con gái là tôi biết dì vui vẻ lắm. Mẹ tôi vẫn bảo, cá chuối đắm đuối vì con. Đời người đàn bà chẳng gì bằng đứa con mình dứt ruột đẻ ra. Nó là tương lai, là lẽ sống của cả đời người đàn bà. Đàn bà bất hạnh nhất không phải là người đàn bà không được chồng thương yêu mà là người đàn bà không con.

Mẹ đã nghe tin dì Lam về từ đầu làng nên dáng vẻ tất tả. Quẳng quang gánh trên vai xuống:

– Dì Lam đâu?

Dì nhìn mẹ. Vẫn đôi mắt to đen bình thản và an vui như nhìn tôi ban nãy. Bao năm rồi tưởng những nỗi giận dì vẫn còn chưa nguôi ngoai trong lòng mẹ. Tưởng những nỗi xấu hổ vì có đứa em gái bỏ chồng rồi bỏ cả làng mà đi vẫn còn khiến mẹ không muốn nhìn mặt dì. Vậy mà... mẹ khóc.

Tôi lớn lên chứng kiến bao nhọc nhằn trên vai mẹ mà chưa lần nào thấy mẹ khóc. Chỉ những mất mát mới làm mẹ rơi nước mắt. Còn giờ đây? Là niềm vui đấy chứ? Sao mẹ khóc? Tôi chạy đến đặt tay lên vai mẹ. Mẹ ngồi xuống thềm, đầu cúi xuống, quệt ngang tay áo. Dì Lam lại gần ôm vai mẹ. Hình như dì không khóc. Đôi mắt dì vẫn bình thản như thế. Từ cái ngày dì quỳ trước mặt bà ngoại xin bà tha tội nhưng nhất quyết không trở lại nhà chồng.

Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ. Khi đã đi qua được những nỗi đau, những mất mát lớn nhất của cuộc đời thì ắt hẳn sẽ không có gì khiến con người ta mềm yếu nữa. Nhưng có lẽ cái mất mát lớn nhất ấy là trái tim kia đã đanh chắc lại, ít cảm xúc hơn, như một cách để tự vệ, để không bị tổn thương thêm bất cứ lần nào nữa.

Tôi nhớ dì Lam của tôi những ngày ngồi chong đèn viết thơ và truyện gửi đăng báo. Dì Lam lúc ấy với mái tóc dài luôn được tết gọn gàng. Đôi mắt trong veo nhìn mà cứ như đang cười. Đó là những tháng năm đẹp nhất của dì. Giờ, đi qua thời con gái dì vẫn giữ được thần thái trong ánh mắt. Đó là ánh mắt của người đàn bà đã trải người, đã thấu hiểu sự đời nên bình tâm trước mọi cái. Ông ngoại tôi vẫn bảo, chỉ cần cái tâm mình an yên, thanh thản là mọi thứ sẽ xuôi hết. Tôi tin cái tâm của dì Lam tôi đã an.

Tôi dỗ em Cải, bế em ra ngoài vườn.

(In trong tập “Thổn thức gió đồng”, Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2021, tr.274 – 276)

* Chú thích: Tác giả Dương Giao Linh tên thật là Vũ Thị Quỳnh Giao, là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Sáng tác của nhà văn là những cảm nhận, suy tư về cuộc sống, về con người và những biến động của thời cuộc... qua đó chuyển tải những triết lí nhân sinh sâu sắc.

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau: “Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng)

1
21 tháng 5

Dưới đây là lời giải chi tiết cho từng câu hỏi về đoạn trích “Thổn thức gió đồng”:


Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Trả lời:
Dấu hiệu để xác định ngôi kể là việc sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” xuyên suốt đoạn trích. Nhân vật “tôi” xưng kể, trực tiếp kể lại câu chuyện và những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Ngoài ra, các từ ngữ như “tôi trở lại”, “tôi ngẩng đầu lên”, “tôi thảng thốt”, “tôi dẫn dì”, “tôi nhớ dì Lam”,… đều thể hiện rõ đây là ngôi kể thứ nhất.


Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Trả lời:

  • Người làng từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa, trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án.
  • Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn.
  • Tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè.
  • Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm.

**Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau:

“Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”**

Trả lời:
Biện pháp tu từ được sử dụng là điệp ngữ (“tháng năm có thể khiến...”, “nhưng tháng năm lại khiến...”) và phép đối giữa hai vế của hai câu.

  • Tác dụng:
    • Nhấn mạnh tác động của thời gian lên con người: thời gian có thể làm con người tiều tụy, yếu mòn về thể xác, nhưng cũng chính thời gian ấy lại tôi luyện cho con người ý chí can trường, bền bỉ về tinh thần.
    • Làm nổi bật sự đối lập giữa thể xác và tinh thần, giữa mất mát và trưởng thành, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh sâu sắc về sức mạnh nội tâm của con người trước thử thách của cuộc đời.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Trả lời:
Đoạn trích được kể theo điểm nhìn của nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất), giúp câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi và giàu cảm xúc.

  • Nhờ điểm nhìn này, người đọc dễ dàng cảm nhận được những biến đổi của làng quê, những trăn trở, suy tư và tình cảm sâu sắc của nhân vật đối với gia đình, quê hương, đặc biệt là với mẹ và dì Lam.
  • Điểm nhìn trần thuật này cũng giúp tác giả thể hiện chủ đề về sự đổi thay của làng quê, về giá trị của tình thân, về sức mạnh vượt qua nghịch cảnh của con người một cách tự nhiên, chân thành và sâu sắc.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (5–7 dòng)

Trả lời:
Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, đời sống vật chất được nâng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, người dân có nhiều cơ hội việc làm hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những đổi thay tích cực, cũng xuất hiện không ít vấn đề như mất đi nét đẹp truyền thống, môi trường sống bị ảnh hưởng, các giá trị văn hóa dần phai nhạt. Theo em, mỗi người cần biết trân trọng, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của quê hương, đồng thời thích nghi với sự phát triển để xây dựng một cuộc sống hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc truyền thống.


Nếu bạn cần mở rộng, phân tích sâu hơn hoặc muốn cô gợi ý cách trình bày, hãy hỏi nhé!

Câu 1 (2,0 điểm). Từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về những điều con người nên làm để đáp lại lời thỉnh cầu của đại dương.Câu 2 (4,0 điểm). Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ sau: Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu Nghe dịu nỗi đau của mẹ Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm).

Từ đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về những điều con người nên làm để đáp lại lời thỉnh cầu của đại dương.

Câu 2 (4,0 điểm).

Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ sau:

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ
Các anh không về, mình mẹ lặng im.
Đất nước tôi
Từ thuở còn nằm nôi
Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa
Lao xao trưa hè một giọng ca dao.

Xin hát về Người, đất nước ơi!
Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi!
Suốt đời lam lũ
Thương lũy tre làng bãi dâu, bến nước
Yêu trọn tình đời, muối mặn gừng cay.
Xin hát về Người, đất nước ơi
Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi!
Mấy mùa không ngủ
Ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc
Vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con

...

Đất nước tôi
Sáng ngời muôn thuở
Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ.

  (Trích “Đất nước”, Tạ Hữu Yên, “Tuyển tập Tạ Hữu Yên”, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006)

* Chú thích:

– Tạ Hữu Yên (1927 – 2013) là nhà thơ, nhà văn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2017. Thơ Tạ Hữu Yên dung dị, hàm súc, tài hoa, giàu nhạc điệu, thể hiện tình cảm sâu nặng với quê hương, đất nước.

– Bài thơ “Đất nước” được ông viết vào năm 1984, sau một lần nhà thơ thăm trại an dưỡng dành cho các bà mẹ có con là liệt sỹ ở tỉnh Thái Bình.

1
19 tháng 5

Câu 1: Đại dương bao la, nguồn sống của hành tinh, đang gửi gắm những lời thỉnh cầu khẩn thiết đến con người qua bao dấu hiệu suy thoái. Để đáp lại tiếng gọi ấy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần hành động bằng sự thấu hiểu và trách nhiệm. Điều đầu tiên cần làm là thay đổi nhận thức về mối quan hệ giữa con người và đại dương. Không còn là sự khai thác vô tận, biển cả cần được nhìn nhận như một hệ sinh thái mong manh, cần được bảo vệ và tôn trọng. Hành động cụ thể cần tập trung vào giảm thiểu ô nhiễm, từ rác thải nhựa đến hóa chất độc hại đổ ra biển khơi. Các biện pháp quản lý khai thác tài nguyên biển bền vững cần được ưu tiên, tránh tình trạng đánh bắt quá mức làm cạn kiệt nguồn lợi. Bên cạnh đó, việc bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng như rừng ngập mặn, rạn san hô cần được đẩy mạnh, tạo môi trường sống an toàn cho các loài sinh vật biển. Quan trọng hơn cả, sự chung tay của cả cộng đồng là yếu tố quyết định. Mỗi cá nhân cần ý thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ đại dương, từ những hành động nhỏ nhất như giảm thiểu sử dụng đồ nhựa, đến việc lên tiếng ủng hộ các chính sách bảo vệ môi trường biển. Chỉ khi có sự đồng lòng và hành động quyết liệt, con người mới có thể đáp lại lời thỉnh cầu của đại dương, bảo vệ tương lai của chính mình và hành tinh này. Câu 2: Đoạn thơ trong bài "Đất nước" của Tạ Hữu Yên là một khúc ca xúc động và sâu lắng về hình ảnh đất nước và người mẹ Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh gian khổ. Với thể thơ tự do giàu nhạc điệu, ngôn ngữ dung dị mà hàm súc, tác giả đã khắc họa một cách chân thực và cảm động vẻ đẹp kiên cường, tình yêu thương vô bờ bến của đất nước và người mẹ. Mở đầu đoạn thơ, hình ảnh "Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu" gợi lên một vẻ đẹp thanh tao, mềm mại nhưng cũng đầy ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng. So sánh đất nước với "giọt đàn bầu" không chỉ thể hiện hình dáng cong cong của dải đất hình chữ S mà còn gợi liên tưởng đến âm thanh độc đáo, ngân nga, da diết như tiếng lòng của dân tộc. Tiếp theo, câu thơ "Nghe dịu nỗi đau của mẹ" như một sự thấu cảm sâu sắc với những mất mát, hy sinh mà người mẹ Việt Nam phải gánh chịu trong chiến tranh. Hình ảnh "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ" là một chi tiết cụ thể, đầy xót xa, thể hiện sự kiên cường nén chặt nỗi đau của người mẹ khi tiễn những đứa con yêu dấu lên đường chiến đấu. Sự lặng im của mẹ ("Các anh không về, mình mẹ lặng im") càng làm nổi bật nỗi đau âm ỉ, kéo dài, trở thành một phần máu thịt của người mẹ và cũng là nỗi đau chung của cả dân tộc. Khổ thơ tiếp theo mở ra một góc nhìn khác về đất nước, không chỉ là nỗi đau mà còn là sức mạnh phi thường từ những ngày còn "nằm nôi". Hình ảnh đất nước "Sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa" là một ẩn dụ mạnh mẽ, thể hiện sự kiên cường, bất khuất của dân tộc trong việc đối mặt với mọi thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến tranh. Giữa những gian lao ấy, vẫn vang lên "Lao xao trưa hè một giọng ca dao" – một nét đẹp văn hóa truyền thống, một sự lạc quan, yêu đời tiềm ẩn trong tâm hồn người Việt. Điệp khúc "Xin hát về Người, đất nước ơi! Xin hát về Mẹ, Tổ quốc ơi!" vang lên như một lời tri ân, một sự tôn kính sâu sắc đối với đất nước và người mẹ. Hình ảnh người mẹ "Suốt đời lam lũ / Thương lũy tre làng bãi dâu, bến nước / Yêu trọn tình đời, muối mặn gừng cay" là một bức chân dung chân thực, giản dị mà cao đẹp. Sự lam lũ, tần tảo của mẹ gắn liền với những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước. Tình yêu thương của mẹ không chỉ dành cho con cái mà còn bao trùm cả "tình đời", chấp nhận cả những khó khăn, gian khổ ("muối mặn gừng cay"). Khổ thơ cuối tiếp tục khắc họa sự hy sinh thầm lặng mà vĩ đại của người mẹ trong những năm tháng "Mấy mùa không ngủ / Ngăn bước quân thù phía Nam, phía Bắc". Hình ảnh "Vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con" là một chi tiết đầy xúc động, thể hiện sự gồng gánh, chở che của mẹ cho cả gia đình và đất nước trong hoàn cảnh khó khăn. Kết thúc đoạn thơ, hình ảnh "Đất nước tôi / Sáng ngời muôn thuở / Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ" mang đến một cảm xúc lắng đọng và tự hào. Vẻ đẹp của đất nước không chỉ là sự kiên cường trong chiến đấu mà còn là vẻ đẹp tiềm ẩn, vĩnh hằng, khơi gợi những cảm xúc thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người. "Trăng đã vào cửa sổ đòi thơ" là một hình ảnh lãng mạn, gợi lên sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện thực và vẻ đẹp tinh thần của đất nước. Tóm lại, đoạn thơ của Tạ Hữu Yên đã vẽ nên một bức tranh vừa bi tráng vừa trữ tình về đất nước và người mẹ Việt Nam. Bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh và cảm xúc, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc lòng yêu nước, sự biết ơn đối với những hy sinh thầm lặng và vẻ đẹp精神 của dân tộc. Đoạn thơ không chỉ là một khúc ca về quá khứ mà còn là lời nhắc nhở về những giá trị thiêng liêng cần được trân trọng và gìn giữ.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4: James ơi, con là tri âm tri kỷ của ta, khi đã chạm vào những nơi sâu thẳm nhất trong tim ta: lặn xuống vực Mariana, khám phá xác tàu Titanic, nhìn thấy những điều mà ít ai trên Trái Đất có thể thấy. Con hiểu tim ta không chỉ là nước và muối, mà là cả một thế giới sống động. Nhưng trái tim ta sắp ngừng đập, James...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:

James ơi, con là tri âm tri kỷ của ta, khi đã chạm vào những nơi sâu thẳm nhất trong tim ta: lặn xuống vực Mariana, khám phá xác tàu Titanic, nhìn thấy những điều mà ít ai trên Trái Đất có thể thấy. Con hiểu tim ta không chỉ là nước và muối, mà là cả một thế giới sống động. Nhưng trái tim ta sắp ngừng đập, James ơi! Ta không thể tự cứu mình! Ta cần con vô cùng vào lúc này! Ta cầu xin con hãy làm một bộ phim để thức tỉnh nhân loại!

Con đã khiến nhân loại khóc vì Titanic, kinh ngạc vì The Abyss, chìm đắm trong Avatar. Nhưng giờ ta cần một bộ phim nói sự thật, câu chuyện của chúng ta: Ta đang bị giết và ta chết, loài người cũng tận thế! Ta muốn bộ phim này mang tên "Lời thỉnh cầu của Đại Dương" (The Ocean's Plea). Đó là lời kêu gọi hành động, một phép thử xem liệu loài người có đủ tình yêu với hành tinh này không.

Ta gợi ý kịch bản thế này con nhé. Đại Dương đang chết. Cá voi hát bài ca tuyệt vọng, san hô biến thành bộ xương trắng, dòng hải lưu bị đảo lộn. Nhưng không ai lắng nghe... và Đại Dương phải tự lên tiếng. Từ vực Mariana, một tín hiệu bí ẩn vang lên, âm thanh trầm buồn, như Đại Dương đang khóc. Tín hiệu được giải mã, với thông điệp đáng sợ: "Ta đang hấp hối. Nếu các ngươi không hành động, loài người sẽ tận thế.".

(https://vnexpress.net/nu-sinh-gianh-giai-nhat-viet-thu-upu-voi-thu-gui-james-cameron-4876140-p2.html)

Câu 1 (1,0 điểm). Theo đoạn trích, “ta cầu xin con” điều gì?

Câu 2 (1,0 điểm). Xác định lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích.

Câu 3 (1,0 điểm). Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa được sử dụng trong những câu văn sau: “Cá voi hát bài ca tuyệt vọng, san hô biến thành bộ xương trắng, dòng hải lưu bị đảo lộn. Nhưng không ai lắng nghe... và Đại Dương phải tự lên tiếng.”.

Câu 4 (1,0 điểm). Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với em? Vì sao?

1
Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về điều bản thân cần làm để thực hiện ước mơ trong cuộc sống.Câu 2 (4,0 điểm). Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ sau:                 BÀN GIAO Rồi ông sẽ bàn giao cho cháu Bàn giao gió heo may Bàn giao góc phố Có mùi ngô nướng...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm). Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về điều bản thân cần làm để thực hiện ước mơ trong cuộc sống.

Câu 2 (4,0 điểm). Viết bài văn nghị luận phân tích bài thơ sau:

                 BÀN GIAO

Rồi ông sẽ bàn giao cho cháu
Bàn giao gió heo may
Bàn giao góc phố
Có mùi ngô nướng bay

Ông sẽ chẳng bàn giao những tháng ngày vất vả
Sương muối đêm bay lạnh mặt người
Đất rung chuyển, xóm làng loạn lạc
Ngọn đèn mờ, mưa bụi rơi

Ông bàn giao tháng giêng hương bưởi
Cỏ mùa xuân xanh dưới chân giày
Bàn giao những mặt người đẫm nắng
Đẫm yêu thương trên trái đất này

  Ông chỉ bàn giao một chút buồn 
Ngậm ngùi một chút, chút cô đơn 
Câu thơ vững gót làm người ấy(1)
Ông cũng bàn giao cho cháu luôn.

      (Theo Vũ Quần Phương(2), Văn nghệ Quân đội Xuân Giáp Ngọ 2014, tr.86)

* Chú thích: 

(1) Câu thơ Cắn răng mà chịu thiệt, vững gót để làm người.

(2) Vũ Quần Phương (sinh năm 1940) tên thật là Vũ Ngọc Chúc, quê cha ở Nam Định nhưng ông hầu như sinh sống và gắn bó cả đời với mảnh đất Hà Nội quê mẹ. Ông là một bác sĩ nhưng yêu thích văn chương, ông sáng tác thơ và viết phê bình văn học. Thơ ông giản dị, sâu sắc mà hóm hỉnh, khoa học, suy tưởng mà ăm ắp trữ tình.

1
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:       Trong thái độ tích cực với bản thân, chúng ta cần phải có ước mơ. Lỗ Tấn từng nói: “Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như con đường chưa có, nhưng con người phải khai phá và vượt qua.”.       Bởi vậy mà ước mơ sẽ làm cho con người sống...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:

       Trong thái độ tích cực với bản thân, chúng ta cần phải có ước mơ. Lỗ Tấn từng nói: “Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như con đường chưa có, nhưng con người phải khai phá và vượt qua.”.

       Bởi vậy mà ước mơ sẽ làm cho con người sống có mục đích, nghị lực. Cuộc sống sẽ trở nên tươi đẹp hơn khi ta nuôi dưỡng ước mơ. Bạn có ước mơ cũng như bạn có cả gia tài. Để biến ước mơ thành hiện thực bạn phải có lòng quyết tâm cao độ. Phải lập ra kế hoạch cho cuộc đời mình và ngày ngày hiện thực hóa giấc mơ đó. Cuộc sống mà không có ước mơ sẽ tệ hại kinh khủng. Bởi khi đó ta đã đánh mất mục tiêu sống của mình. Không có sự đam mê, sáng tạo sẽ khiến bạn chán nản và không tâm huyết với công việc mình đang làm. Bạn không có động lực để vượt qua khó khăn và luôn bằng lòng với những gì mình đang có.

        Trước khi có một cái gì đó là hữu hình thì nó là ước mơ, nó đã nằm trong đầu của ai đó. Cũng như trước khi có iPhone, iPad ngày nay thì nó đã nằm trong đầu của Steve Jobs từ rất lâu rồi. Bạn ước mơ càng lớn lao vĩ đại thì con người của bạn sẽ có động lực để sống càng lớn lao vĩ đại. Bạn phải sống, phấn đấu để xứng đáng với ước mơ đó. Nó quyết định mọi hành xử, hành động của bạn.

        Khi đã có ước mơ bạn không được do dự để rồi đánh mất ước mơ của mình. Một khi ý tưởng xuất hiện mà bạn không hành động, nó xuất hiện rồi mất đi, xuất hiện lại mất đi, thì đến một ngày nào đó nó không xuất hiện nữa. Bởi vì nó là một thói quen.

       Mọi ước mơ dù mơ hồ đều có một giá trị, vì vậy hãy luôn tin tưởng vào nó. Đừng nghĩ nó viển vông, đừng nghĩ nó vớ vẩn. Quan trọng là bạn cố gắng vì nó như thế nào và nỗ lực đến đâu mà thôi. Đôi khi một ước mơ, một công việc tưởng chừng như điên rồ nhưng người ta vẫn làm được, vẫn tỏa sáng trên đỉnh cao thành công đấy các bạn ạ.

               (Thay thái độ đổi tương lai, Lê Văn Thành, NXB Dân trí, năm 2016, tr.65 – 66)

Câu 1 (1,0 điểm). Theo tác giả, cuộc sống mà không có ước mơ sẽ như thế nào?

Câu 2 (1,0 điểm). Xác định phần dẫn trong các câu sau và cho biết phần đó được dẫn theo cách trực tiếp hay gián tiếp?

     Trong thái độ tích cực với bản thân, chúng ta cần phải có ước mơ. Lỗ Tấn từng nói: “Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như con đường chưa có, nhưng con người phải khai phá và vượt qua.”.

Câu 3 (1,0 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ trong câu văn sau: Một khi ý tưởng xuất hiện mà bạn không hành động, nó xuất hiện rồi mất đi, xuất hiện lại mất đi, thì đến một ngày nào đó nó không xuất hiện nữa.

Câu 4 (1,0 điểm). Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất đối với em? Vì sao?

1
Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung phần Đọc – hiểu em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những việc cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại.Câu 2 (4,0 điểm): Phân tích truyện ngắn sau:MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải....
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm): Từ nội dung phần Đọc – hiểu em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những việc cần làm để giữ gìn và phát huy những phong tục truyền thống tốt đẹp trong cuộc sống hiện đại.

Câu 2 (4,0 điểm): Phân tích truyện ngắn sau:

MỘT LẦN VÀ MÃI MÃI

Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước mặt một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy.

Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lóa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy.

Chúng tôi nhao nhao:

– Bán cho con một táng đường, bà.

– Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.

Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi.

Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến mất đâu. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến cho tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được “ăn ghẹ” của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại...

– Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? – Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi.

– Tao không có tiền.

Bá cười sằng sặc:

– Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.

Tôi ngạc nhiên:

– Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì?

Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra mấy tờ giấy đã viết, được cắt gọn ghẽ như những tờ giấy bạc, nói thì thầm:

– Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bà đâu có thấy. – Nó ngừng một lát rồi nói tiếp, – Tao có ba tờ tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua cuối cùng mình mới mua.

Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ “bạc giả” của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng loé lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa đường táng đen cho tôi.

Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không thấy có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng túm lại dưới quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giở cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền vừa nói vọng ra:

– Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.

Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì quay vô nhà nói với ai đó:

– Số tiền này vừa đủ mua một chiếc chiếu gói bả đấy. – Im lặng một lúc rồi bác tiếp – Bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra... Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt.

Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi cũng không còn đông đủ như trước. Có những đứa vốn ngỗ ngược, sau này lại trở thành những du kích dũng cảm và hi sinh. Có nhiều đứa theo gia đình, bỏ quê xứ đi làm ăn xa. Thằng Bá bây giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày trên những rộc cát khô khốc mong tìm từng củ khoai để nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đứa đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ...

Trong đời, có những điều ta đã lầm lỡ, không bao giờ còn có dịp để sửa chữa được nữa.

(Trích 65 truyện ngắn hay dành cho thiếu nhi, Thanh Quế, NXB Kim Đồng)

2
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:Phong tục lì xì đầu năm (1) Để duy trì ý nghĩa tốt đẹp của phong tục lì xì, nhiều gia đình đã giáo dục con trẻ về việc trân trọng những phong bao may mắn đầu năm, không nên so sánh hay đánh giá dựa trên số tiền nhận được. Việc làm này giúp trẻ hiểu rằng lì xì là biểu hiện của tình cảm và lời chúc, không...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:

Phong tục lì xì đầu năm

(1) Để duy trì ý nghĩa tốt đẹp của phong tục lì xì, nhiều gia đình đã giáo dục con trẻ về việc trân trọng những phong bao may mắn đầu năm, không nên so sánh hay đánh giá dựa trên số tiền nhận được. Việc làm này giúp trẻ hiểu rằng lì xì là biểu hiện của tình cảm và lời chúc, không phải là thước đo giá trị vật chất.

(2) Ngoài ra, một số người còn sáng tạo trong việc lì xì bằng cách tặng hạt giống, sách hoặc những món quà mang ý nghĩa tinh thần. Nhiều phụ huynh thay vì lì xì tiền, đã tặng sách như “Hạt giống tâm hồn” hoặc những bộ truyện cổ tích Việt Nam, giúp trẻ hiểu thêm về giá trị đạo đức và văn hóa dân tộc. Những người khác chọn tặng hạt giống cây xanh để khuyến khích ý thức bảo vệ môi trường. Điều này không chỉ giữ gìn phong tục truyền thống mà còn khuyến khích lối sống lành mạnh, ý thức bảo vệ môi trường và trân trọng tri thức.

(3) Chính bởi vậy, phong tục lì xì đầu năm mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm, chúc phúc và mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau. Việc duy trì và truyền dạy ý nghĩa thực sự của tục lệ này sẽ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tạo nên không khí Tết ấm áp, đoàn viên. 

(https://tuoitre.vn/li–xi–gi–ma–co–50–000–dong)

Câu 1 (1,0 điểm): Câu văn: “Chính bởi vậy, phong tục lì xì đầu năm mang ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa Việt Nam, thể hiện sự quan tâm, chúc phúc và mong muốn những điều tốt đẹp cho nhau.” Là câu đơn hay câu ghép? Vì sao?

Câu 2 (1,0 điểm): Em hãy cho biết đoạn văn (1) được viết theo hình thức nào?

Câu 3 (1,0 điểm): Luận đề, luận điểm của đoạn văn trên là gì?

Câu 4 (1,0 điểm): Gia đình em chuẩn bị đón Tết và dự định giữ gìn phong tục lì xì truyền thống. Tuy nhiên, em nhận thấy một số bạn nhỏ trong nhà có xu hướng so sánh số tiền lì xì với nhau và không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của phong tục này. Nếu em là người anh/chị trong gia đình, em sẽ làm gì để giúp các bạn nhỏ thay đổi suy nghĩ và trân trọng giá trị tinh thần của phong tục lì xì?

1
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: KHÔNG CÓ GÌ TỰ ĐẾN ĐÂU CON Không có gì tự đến đâu con Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa Mùa bội thu phải một nắng hai sương. Không có gì tự đến dẫu bình thường Phải bằng cả đôi tay và nghị lực Như con chim suốt ngày chọn hạt Năm tháng bao dung...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

KHÔNG CÓ GÌ TỰ ĐẾN ĐÂU CON

Không có gì tự đến đâu con
Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa
Mùa bội thu phải một nắng hai sương.

Không có gì tự đến dẫu bình thường
Phải bằng cả đôi tay và nghị lực
Như con chim suốt ngày chọn hạt
Năm tháng bao dung nhưng khắc nghiệt lạ kì.

Dẫu bây giờ bố mẹ – đôi khi
Có nặng nhẹ yêu thương và giận dỗi
Có roi vọt khi con hư và dối
Thương yêu con đâu đồng nghĩa với chiều.

  Đường con đi dài rộng rất nhiều
Năm tháng nụ xanh giữ cây vươn thẳng
Trời xanh đấy, nhưng chẳng bao giờ lặng
Chỉ có con mới nâng nổi chính mình.

Chẳng có gì tự đến – Hãy đinh ninh.

  (Nguyễn Đăng Tấn, Không có gì tự đến đâu con, trích tập thơ Lời ru Vầng trăng, NXB Hội Nhà văn, 2000)

Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra dấu hiệu hình thức để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2 (1,0 điểm). Việc tác giả sử dụng hình thức lời tâm sự của người cha với con trong văn bản có hiệu quả gì?

Câu 3 (0,5 điểm). Tìm và giải nghĩa một thành ngữ được sử dụng trong văn bản.

Câu 4 (1,0 điểm). Nêu tác dụng của biện pháp tu từ điệp ngữ được sử dụng ở hai khổ thơ đầu của văn bản.

Câu 5 (1,0 điểm). Em có suy nghĩ gì về lời nhắn nhủ của người cha trong hai câu thơ:

Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa.

1

ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.

Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu[1] có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành"

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Giầy[2]. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Giầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

DH
Đỗ Hoàn
CTVHS VIP
19 tháng 5

Ngày xưa, đời vua Hùng Vương thứ sáu, nhà vua muốn tìm người kế vị. Vua có rất nhiều hoàng tử, mỗi người một vẻ. Vua bèn gọi các con lại và bảo: "Ta muốn truyền ngôi cho người nào tìm được món ăn vừa ý ta để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày đầu năm."

Các hoàng tử đua nhau đi khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ. Người thì lên rừng săn thú quý, người thì xuống biển mò hải sản. Ai nấy đều muốn mang về những thứ độc đáo nhất để dâng lên vua cha.

Trong số các hoàng tử có Lang Liêu, người con thứ mười tám. Chàng vốn hiền lành, chất phác, không có của ngon vật lạ để dâng vua. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy một vị thần mách bảo: "Vật quý ở đời không đâu bằng gạo. Hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn tượng trưng cho trời, và bánh hình vuông tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá xanh bọc ngoài, lấy đậu xanh làm nhân ở trong, tượng trưng cho cây cỏ muông thú."

Tỉnh dậy, Lang Liêu làm theo lời thần dặn. Chàng chọn gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon nhất, vo thật kỹ. Lá dong xanh mướt được rửa sạch. Đậu xanh được đồ chín, giã nhuyễn. Thịt lợn ba chỉ được ướp gia vị đậm đà. Tất cả được gói ghém cẩn thận trong những chiếc lá dong vuông vắn, buộc lạt lề. Đó là bánh chưng.

Rồi Lang Liêu lại lấy gạo nếp đồ chín, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn, trắng mịn như bông. Đó là bánh dày.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều mang sơn hào hải vị đến dâng vua. Vua Hùng nếm thử các món ăn, nhưng vẫn chưa thấy vừa ý. Cuối cùng, vua cho gọi Lang Liêu và xem những chiếc bánh giản dị của chàng.

Khi Lang Liêu dâng bánh chưng bánh dày, vua Hùng rất ngạc nhiên. Lang Liêu đã giải thích ý nghĩa của từng loại bánh. Vua nếm thử, thấy bánh dẻo thơm, đậm đà hương vị đồng quê thì vô cùng hài lòng.

Vua Hùng phán rằng: "Bánh của Lang Liêu quý giá hơn cả. Nó tượng trưng cho trời đất, lại thể hiện được tấm lòng thành kính đối với tổ tiên."

Thế là, Lang Liêu được vua Hùng truyền ngôi. Từ đó, bánh chưng bánh dày trở thành những món ăn truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta, để tưởng nhớ công ơn của vua Hùng và Lang Liêu.