K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 4

Nông nghiệp:

  • Lúa nước là chủ yếu: Cư dân Chăm-pa có nền nông nghiệp lúa nước phát triển, canh tác trên nhiều loại ruộng khác nhau, bao gồm cả ruộng bậc thang ở vùng đồi núi và ruộng bằng phẳng ven sông.
  • Sử dụng công cụ và sức kéo: Họ đã biết sử dụng các công cụ lao động bằng sắt và sức kéo của trâu bò để tăng năng suất.
  • Hệ thống thủy lợi: Người Chăm-pa xây dựng các hệ thống thủy lợi như guồng nước để dẫn nước vào ruộng, đặc biệt ở các vùng khô hạn.
  • Ngoài lúa: Họ còn trồng các loại cây ăn quả (cau, dừa, mít) và cây công nghiệp.

Thủ công nghiệp:

  • Phát triển đa dạng: Các nghề thủ công như làm gốm, dệt vải (đặc biệt là lụa tơ tằm), luyện kim (chế tác công cụ, vũ khí, đồ trang sức), đóng thuyền và xây dựng (đền tháp) đều phát triển.
  • Kỹ thuật cao: Kỹ thuật xây dựng đền tháp Chăm đạt đến trình độ cao với những công trình kiến trúc độc đáo và tinh xảo.

Thương nghiệp:

  • Đường biển quan trọng: Với vị trí địa lý thuận lợi, Chăm-pa trở thành một trung tâm buôn bán đường biển quan trọng trong khu vực Đông Nam Á.
  • Trao đổi hàng hóa: Họ buôn bán với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước trong khu vực Đông Nam Á và thậm chí cả Ả Rập.
  • Mặt hàng buôn bán: Các mặt hàng trao đổi bao gồm nông sản (gạo), lâm sản (trầm hương, ngà voi, sừng tê giác), thủ công nghiệp (đồ gốm, vải), và các sản phẩm khai thác từ biển. Chăm-pa cũng là nơi trung chuyển các mặt hàng tơ lụa, hồ tiêu giữa các nước.

Khai thác tài nguyên:

  • Lâm sản quý: Chăm-pa nổi tiếng với các loại lâm sản quý như trầm hương, ngà voi, sừng tê giác.
  • Khai thác khoáng sản: Vàng và hổ phách cũng được khai thác.
  • Đánh bắt thủy sản: Hoạt động đánh bắt cá và các sản phẩm từ biển cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.

Nhìn chung, kinh tế Chăm-pa thời kỳ này khá phát triển và đa dạng, dựa trên nền tảng nông nghiệp vững chắc kết hợp với sự phát triển của thủ công nghiệp và thương mại đường biển sôi động. Vị trí địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho Chăm-pa trở thành một cầu nối quan trọng trong giao thương khu vực.

26 tháng 4

Tình hình kinh tế của vương quốc Chăm Pa thời phong kiến khá phát triển, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại:

Nông nghiệp:
Chăm Pa chú trọng khai hoang, trồng lúa nước ở các đồng bằng ven sông như sông Thu Bồn, sông Trà Khúc... Họ biết dùng hệ thống thủy lợi để dẫn nước tưới tiêu. Ngoài lúa, người Chăm còn trồng kê, ngô, hoa màu và cây ăn quả.

Thủ công nghiệp:
Người Chăm nổi tiếng với nghề gốm, dệt vải, làm đồ trang sức và xây dựng. Các sản phẩm thủ công của họ có kỹ thuật tinh xảo và mang đậm bản sắc văn hóa Chăm, đặc biệt là kiến trúc và điêu khắc trên tháp Chăm.

Thương mại:
Chăm Pa có vị trí thuận lợi ven biển, nên hoạt động buôn bán đường biển phát triển mạnh. Họ buôn bán với nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhiều cảng thị như Trà Kiệu, Hội An xưa (Cù Lao Chàm) từng rất sầm uất.

Giao lưu văn hóa và kinh tế:
Thông qua hoạt động thương mại, Chăm Pa tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa, tôn giáo, kỹ thuật từ Ấn Độ và các nước khác, làm phong phú thêm đời sống kinh tế - văn hóa của vương quốc.

Từ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, những bài học có thể được rút ra trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay là:

-Phải có sự đoàn kết, đồng lòng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì đất nước mới có thể tồn tại và phát triển được

-Đất nước cần phải có tinh thần tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh nội tại trong các tất cả các lĩnh vực từ chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội,... thì đất nước mới có thể phát triển được

-Trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cần có chiến lược đúng đắn và tầm nhìn dài hạn, cần phải xây dựng kế hoạch ứng phó với những diễn biến khó lường của tình hình trong và ngoài nước

26 tháng 4

Bài học rút ra là: phải đoàn kết toàn dân, có lãnh đạo sáng suốt, biết tận dụng thời cơ và sức mạnh dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Lê Lợi có vai trò là đầu tàu, là người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giúp cho nước ta giành lại được độc lập sau hơn 20 năm rơi vào tay quân Minh.

Lê Lợi đúng là một nhà quân sự tài ba, khi đã tính toán rất đúng đắn và khéo léo về thời điểm bung sức, khi nghĩa quân còn yếu thì tạm rút vào trong để xây dựng lực lượng, còn khi nghĩa quân đã mạnh lên thì ra tay xử lý quân thù nhanh-gọn-lẹ với trận quyết chiến ở ải Chi Lăng.

26 tháng 4

Lê Lợi có công lớn trong khởi nghĩa Lam Sơn: lãnh đạo tài giỏi, đoàn kết nghĩa quân, dùng mưu lược đánh bại giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc.

a: Xét ΔABC vuông tại A và ΔADE vuông tại A có

AB=AD

AC=AE

Do đó: ΔABC=ΔADE

=>BC=DE

b: Xét ΔABD vuông tại A có AB=AD

nên ΔABD vuông cân tại A

=>\(\widehat{ABD}=\widehat{ADB}=45^0\)

Xét ΔAEC vuông tại A có AE=AC

nên ΔAEC vuông cân tại A

=>\(\widehat{AEC}=\widehat{ACE}=45^0\)

Ta có: \(\widehat{ABD}=\widehat{AEC}\left(=45^0\right)\)

mà hai góc này là hai góc ở vị trí so le trong

nên BD//CE

 

a: Xét ΔBAD có BA=BD

nên ΔBAD cân tại B

ΔBAD cân tại B

mà BE là đường phân giác

nên BE\(\perp\)AD

b: Xét ΔBAE và ΔBDE có

BA=BD

\(\widehat{ABE}=\widehat{DBE}\)

BE chung

Do đó: ΔBAE=ΔBDE

=>EA=ED

c: ΔBAE=ΔBDE

=>\(\widehat{BAE}=\widehat{BDE}\)

=>\(\widehat{BDE}=90^0\)

=>ED\(\perp\)BC tại D

Xét ΔEAF vuông tại A và ΔEDC vuông tại D có

EA=ED

AF=DC

Do đó: ΔEAF=ΔEDC

=>EF=EC

d: ΔEAF=ΔEDC

=>\(\widehat{AEF}=\widehat{DEC}\)

=>\(\widehat{AEF}+\widehat{AED}=180^0\)

=>F,E,D thẳng hàng

     Mỗi lần hái được rau khúc về, bà tôi lấy nước mưa trong bể rửa sạch rau khúc và để cho thật ráo nước mới cho vào cối giã. Bà tôi giã rau khúc cho đến khi nhuyễn và dẻo như người ta giã giò. Sau đó bà tôi mới trộn rau khúc đã giã với bột nếp và nhào cho thật nhuyễn. Mỗi khi bà tôi nhào bột bánh xong, tôi cũng cúi rạp xuống ghé sát mũi vào cối bột bánh bà hít thật sâu. Cho...
Đọc tiếp


     Mỗi lần hái được rau khúc về, bà tôi lấy nước mưa trong bể rửa sạch rau khúc và để cho thật ráo nước mới cho vào cối giã. Bà tôi giã rau khúc cho đến khi nhuyễn và dẻo như người ta giã giò. Sau đó bà tôi mới trộn rau khúc đã giã với bột nếp và nhào cho thật nhuyễn. Mỗi khi bà tôi nhào bột bánh xong, tôi cũng cúi rạp xuống ghé sát mũi vào cối bột bánh bà hít thật sâu. Cho dù vẫn chỉ là bột sống nhưng hương vị bánh khúc đã dâng lên làm tôi ứa đầy nước miếng. Những lúc như thế, tôi lại giục bà đồ bánh khúc. Nhưng bà tôi không bao giờ đồ bánh ngay. Bà tôi cứ để cối bột đã nhào kĩ chừng hơn một tiếng mới bắt đầu nặn bánh. Ngày xưa, chả mấy khi có thịt làm nhân bánh như bây giờ. Bà tôi chỉ dùng một ít nước mỡ trộn với đậu xanh mà quê tôi gọi là đậu tằm được thổi chín và giã nhuyễn cùng với hành lá làm nhân. Thi thoảng mua được mấy lạng mỡ phần thì bà tôi mới thái một ít để làm nhân bánh. Những miếng mỡ thái hạt lựu béo ngậy đến mê người. Khi ăn một chiếc bánh khúc như thế, tôi cứ nhai mãi mà không muốn nuốt. Cái béo của mỡ lợn, cái bùi của đậu và vị ngọt ngào của bột nếp và hương rau khúc làm nên một món ăn dân dã ngon lạ thường. Khi đồ bánh, bà tôi phủ một lớp rau khúc kín mặt chõ bánh để giữ hơi và làm cho chõ bánh đậm thêm

0
25 tháng 4

Câu hỏi ?

25 tháng 4

Đoàn kết là cội nguồn của sức mạnh và chiến thắng. Bởi vậy, từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã chú trọng đến việc giáo dục tinh thần đoàn kết qua những huyền thoại đẹp như Sự tích trăm trứng, Quả bầu mẹ,…Thiêng liêng thay là ý nghĩa của hai tiếng đồng bào. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sinh sống trên non sông đất nước này đều do cùng một mẹ sinh ra. Bài học về đoàn kết còn được gửi gắm trong những câu ca dao làm rung động lòng người:

Nhiễu điều phủ lấy giá  gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Câu ca dao trên là một chân lí lớn lao về truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc. Sự gắn bó của tình giai cấp, nghĩa đồng bào được đem so sánh với miếng nhiễu điều (một loại lụa quý màu đỏ, dệt từ tơ tằm) phủ trên chiếc giá gương (chiếc khung để gắn gương soi). Miếng nhiễu ấy che phủ cho tấm gương khỏi bụi, mãi mãi sáng trong. Tấm gương kia cũng làm tôn thêm vẻ đẹp, vẻ quý của miếng nhiễu điều. Hai vật ấy luôn luôn khăng khít bên nhau, bổ sung giá trị cho nhau.

Ý nghĩa câu ca dao không dừng ở đó. Sâu xa hơn, nó chứa đựng một lời khuyên nghĩa tình thắm thiết: Người trong một nước phải thương nhau cùng. Sống trên đất nước này, dù người trên rừng, kẻ dưới biển, dù người Kinh hay người Thượng, chúng ta phải luôn nhớ rằng các dân tộc đều là con của một mẹ sinh ra, đều là dòng giống Lạc Hồng. Đó chính là sợi dây vô hình mà hết sức thiêng liêng kết nối các thành viên trong cộng động để tạo nên xã hội.

Trong cuộc đời, không ai có thể tồn tại được nếu sống cách biệt với mọi người. Tách mình ra khỏi ràng buộc quan hệ với gia đình, giai cấp và dân tộc thì chẳng khác nào tự tiêu diệt vì cá nhân không thể làm nên sức mạnh. Chỉ có một cộng đồng thống nhất về ý chí, gắn bó chặt chẽ về quyền lợi mới tạo nên được sức mạnh dựng nước và giữ nước, mới sáng tạo ra những của cải vật chất, tinh thần làm giàu cho xã hội.

Bài học đoàn kết đã được chứng minh qua thực tế mấy ngàn năm lịch sử của nước ta. Trải qua bao cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, sức mạnh của truyền thống đoàn kết đã tạo nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh,… Dân tộc Việt Nam nhờ đoàn kết mà tồn tại và không ngừng phát triển.

Đoàn kết trong thời chiến để giữ nước, đoàn kết trong thời bình để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhận thức ấy phải được thấm sâu vào mỗi con người. Chúng ta là con một cha, nhà một nóc, Thịt với xương, tim óc dính liền(thơ Tố Hữu). Thương yêu, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc yên vui cũng như trong cơn hoạn nạn, ấy là đạo lí làm người – là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Tinh thần đoàn kết, thương yêu giai cấp, giống nòi là cơ sở của tình yêu quê hương, đất nước. Tinh thần ấy được thể hiện qua những việc làm cụ thể hằng ngày: một hành động giúp đỡ người già cả, tàn tật, người gặp khó khăn hoạn nạn; một phong trào cứu trợ đồng bào vùng bị thiên tai; một phong trào đền ơn đáp nghĩa rộng khắp; những lớp học tình thương mở nơi hang cùng ngõ hẻm, đem ánh sáng văn hóa đến với trẻ em nghèo…Tất cả những việc làm ấy là kết quả của một cách sống coi trọng nhân nghĩa, là kết quả của bài học tương thân, tương ái lưu luyến đã bao đời.

Bên cạch cách sống đẹp đẽ ấy thì cách sống ích kỉ, chỉ biết quyền lợi cá nhân thì đáng phê phán. Thờ ơ trước nỗi đau của người khác, tệ hại hơn là vui sướng trên nỗi khổ cực, mất mát của đồng bào, đó là biểu hiện sự suy thoái về đạo đức và nhân cách. Xã hội mới không chấp nhận những kẻ như vậy vào cộng đồng dân tộc.

Trong thời đại hôm nay, câu ca dao trên vẫn giữ nguyên ý nghĩa nhân sinh của nó. Kế thừa và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, chúng ta hãy kề vai sát cánh bên nhau để xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Trên đường đi tới tương lai tươi sáng, lời Bác Hồ dạy luôn luôn là nguồn sức mạnh cho cả dân tộc: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công.

Tick cho mik nha, mỏi tay quá rùi