K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đọc văn bản:Tôi yêu những con đường Hà NộiCuối năm cây cơm nguội lá vàngNhững ngọn đèn thắp sáng lúc hoàng hônMái phố cũ nhấp nhô trong khói nhặt Ngã năm rộng, cỏ ven hồ xanh mướtNăm nay đào nở sớm, tháng giêng sangTháng giêng bỡ ngỡ búp bàng nonNhiều trẻ con và nhiều chim sẻ Những con đường đông vui như tuổi trẻNhư cuộc đời, bao kỷ niệm đi quaAnh trở về sau những tháng năm...
Đọc tiếp

Đọc văn bản:

Tôi yêu những con đường Hà Nội

Cuối năm cây cơm nguội lá vàng

Những ngọn đèn thắp sáng lúc hoàng hôn

Mái phố cũ nhấp nhô trong khói nhặt

 

Ngã năm rộng, cỏ ven hồ xanh mướt

Năm nay đào nở sớm, tháng giêng sang

Tháng giêng bỡ ngỡ búp bàng non

Nhiều trẻ con và nhiều chim sẻ

 

Những con đường đông vui như tuổi trẻ

Như cuộc đời, bao kỷ niệm đi qua

Anh trở về sau những tháng năm xa

Cây đã lớn, lòng ta nhiều đổi khác

 

Như đất nước vừa qua thời lửa đạn

Lại ngỡ ngàng: chim nhỏ, tháng giêng xuân

Lòng chưa quên ngọn lửa sáng đêm rừng

Câu thơ viết dưới bầu trời báo động


Tôi yêu những con đường gió lộng

Buổi mai chiều tíu tít bánh xe lăn

Mỗi ngôi nhà như dáng một người thân

Ô cửa nhỏ mở về bát ngát

 

Tôi yêu những phố dài tít tắp

Con đường nào cũng dẫn về anh

Bước chân đi xáo động cả tâm tình

Cây trổ lá như thời gian vẫy gọi

 

Những con đường ra đi, nay trở lại

Chồng gạch cao vừa dỡ ở gian hầm

Tùng chở che người đêm tối bom rung

Sẽ lớn dậy với ngôi nhà đang dựng

Thành tường vách chở che cho hạnh phúc

Thành bậc thềm mở cửa đón ban mai

 

Tôi yêu những con đường lấp lánh mưa bay

Chim sẻ sẻ và mùa xuân đến sớm...

(Những con đường tháng giêng, Xuân Quỳnh, Thơ Xuân Quỳnh, NXB Đồng Nai 1997, tr. 29)

Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là gương mặt nhà thơ nữ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ Những con đường tháng giêng được sáng tác năm 1976, là những xúc cảm tha thiết, sâu lắng về Hà Nội, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình Xuân Quỳnh.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Chỉ ra dấu hiệu để xác định thể thơ của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm). Xác định hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng xuất hiện xuyên suốt trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm). Trình bày tác dụng của điệp ngữ “Tôi yêu” được sử dụng trong văn bản.

Câu 4 (1,0 điểm). Nêu sự vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình tôi trong văn bản.

Câu 5 (1,0 điểm). Từ tâm trạng của nhân vật trữ tình tôi, anh/ chị hãy bày tỏ suy nghĩ về sự cần thiết phải trân trọng quá khứ (trình bày trong khoảng 5 – 7 dòng).

0
Đọc đoạn trích sau:CON THÚ LỚN NHẤTNguyễn Huy Thiệp Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại,...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau:

CON THÚ LỚN NHẤT

Nguyễn Huy Thiệp

Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.

Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.

Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt... Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.

Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ già của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.

Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?

Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú… Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái. Cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “đùng”! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.

Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con vượn. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây, gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.

Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão.

Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.

(Trích Những ngọn gió Hua Tát, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr. 258 – 262)

* Chú thích:

Cái lếp: giỏ đeo.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm): Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản.

Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhoè máu.

Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.

Câu 5 (1,0 điểm): Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).

0
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu: KHÚC RU CÁNH ĐỒNG Trần Thị Ngọc MaiÀ ơi… cánh đồng mùa cấyCon cò lầm lũi thấp – caoTay mẹ nhịp nhàng khâu đấtNắng xiên lá mạ, mưa rào… À ơi… cánh đồng mùa gặtDáng lúa đánh võng lời ruDáng mẹ nặng cong tay háiCánh cò nghiêng nghiêng lưng gầy…À ơi… cánh đồng mùa lũCò con ăn mép bờ congTay cha xoăn xoăn...
Đọc tiếp

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:

KHÚC RU CÁNH ĐỒNG

Trần Thị Ngọc Mai

À ơi… cánh đồng mùa cấy

Con cò lầm lũi thấp – cao

Tay mẹ nhịp nhàng khâu đất

Nắng xiên lá mạ, mưa rào…

 

À ơi… cánh đồng mùa gặt

Dáng lúa đánh võng lời ru

Dáng mẹ nặng cong tay hái

Cánh cò nghiêng nghiêng lưng gầy…


À ơi… cánh đồng mùa lũ

Cò con ăn mép bờ cong

Tay cha xoăn xoăn chùm lưới

Cá tôm chạng vạng ánh đèn…

 

À ơi… cánh đồng quê tôi

Thánh thót mồ hôi trưa – mẹ

Dập bầm bước chân đêm – cha

Rạ rơm đan mùa xào xạc…

 

À ơi… ơi à…

(Trần Thị Ngọc Mai, in trong Giọt thời gian, NXB Hội Nhà văn, 2018, tr. 16-17)

* Chú thích:

   Trần Thị Ngọc Mai sinh năm 1979 tại Hà Tĩnh, hiện là giáo viên THCS, hội viên Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh; đã xuất bản 2 tập thơ: Giọt thời gian, Nơi bình yên của bão. Bài thơ Khúc ru cánh đồng đã ghi lại những cảm xúc suy nghĩ về hình ảnh cha và mẹ vất vả lao động trên cánh đồng.

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định thể thơ trong bài thơ trên.

Câu 2 (0,5 điểm). Ghi lại những từ ngữ thể hiện sự vất vả của người cha, người mẹ được sử dụng trong bài thơ.

Câu 3 (1,0 điểm). Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ ẩn dụ được sử dụng trong hai dòng thơ sau:

Dáng mẹ nặng cong tay hái

Cánh cò nghiêng nghiêng lưng gầy...

Câu 4 (1,0 điểm). Nêu ý nghĩa của hình ảnh mồ hôi trưa, bước chân đêm trong năm dòng thơ cuối.

Câu 5 (1,0 điểm). Qua bài thơ, em hãy rút ra bài học cho bản thân.

0