(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
PHẠM TỬ HƯ LÊN CHƠI THIÊN TÀO
Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt.
Khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về. Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ, đời Trần, sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ Tây.
Một buổi sáng, ở nhà trọ đi ra, trong áng sương mù thấy có một đám những tán vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ dòm trộm xem thì người ngồi trong xe, chính thầy học mình là Dương Trạm. Chàng toan đến gần sụp lạy nhưng Trạm xua tay nói:
– Giữa đường không phải chỗ nói chuyện, tối mai nên đến đền Trấn Vũ cửa Bắc, thầy trò ta sẽ hàn huyên một hôm.
Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn mà đến. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lắm, chàng nhân hỏi rằng:
– Thầy mới từ trần chưa bao lâu, thoắt đã trở nên hiển hách khác hẳn ngày trước, xin thầy cho biết rõ duyên do để con được vui mừng.
Dương Trạm nói:
– Ta thuở sống không có một điều thiện nào đáng khen, chỉ có hay giữ điều tín thực đối với thầy bạn, quý trọng những tờ giấy có chữ, hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế quân đây ngài khen là có bụng tốt tâu xin cho làm chức trực lại ở cửa Tử đồng(1). Hôm qua ta hầu lính giá ngài lên chầu Thiên cung, tình cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là vì thầy trò mình có cái mối duyên.
Tử Hư nói:
– Thầy được lĩnh chức trọng quyền cao như vậy, chẳng hay sự sống chết thọ yểu của con, thầy có được rõ không?
– Việc đó không phải thuộc về chức vụ của ta.
– Vậy thế thầy giữ về việc gì?
– Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh cao thấp của những học trò trong thiên hạ.
Tử Hư mừng mà rằng:
– Nếu thế thì tiền trình của con cùng đạt thế nào chắc thầy biết rõ?
– Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời này không ai bì kịp, huống anh lại còn có tính trung hậu thành thực; có điều lúc thiếu thời thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời mới bắt đỗ muộn để phải chùn nhụt cái nết ngông ngáo đi. Nếu không thì cướp thẻ trước của Mông Chính(2), lặt cỏ rác của Hạ Hầu(3) phỏng anh còn khó khăn gì nữa. Cho nên xưa nay người ta bàn về kẻ sĩ, tất trước hết xét đến đức hạnh là vì thế….
[Lược một đoạn: Tử Hư hỏi thầy về sự việc của một số người đương làm quan trong triều, đều được thầy giải đáp cho hết. Sau lại được thầy đồng ý cho theo cùng lên thiên tào thăm thú.]
Dương Trạm bèn dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các tòa. Trước hết đến một tòa có cái biển đề ngoài là “Cửa tích đức” trong có chừng hơn nghìn người mũ hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng, Tử Hư hỏi thì Dương Trạm nói:
– Đó là những vị tiên thuở sống có lòng yêu thương mọi người, tuy không phải dốc hết tiền của để làm việc bố thí, nhưng biết tùy thời mà chu cấp, đã không keo bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng đế khen là có nhân, liệt vào thanh phẩm nên họ được ở đây.
Lại đi qua một tòa sở có cái biển đề ở ngoài là “Cửa Thuận hạnh”, trong đó độ hơn nghìn người, áo mây lọng mưa, kẻ hát người múa. Tử Hư lại hỏi, Dương Trạm nói:
– Đó là những vị tiên thuở sống hiếu thuận, hoặc trong lưu ly biết bao bọc lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy đời ở chung không nỡ chia rẽ. Thượng đế khen là có lòng, cho vào cung mây nên họ được ở đây.
Lại đến một tòa sở có cái biển đề là “Cửa Nho thần” người ở đấy đều áo dài đai rộng, cũng có tới số một nghìn, trong có hai người mặc áo lụa, đội mũ sa.
Dương Trạm trỏ bảo Tử Hư rằng:
– Ấy là ông Tô Hiến Thành(4) triều Lý và ông Chu Văn An(5) triều Trần đó. Ngoài ra thì là những danh thần đời Hán, đời Đường, không sung vào quan vị hay chức chưởng gì cả, chỉ ngày sóc ngày vọng thì vào tham yết Đế quân, như những viên tản quan đời nay thỉnh thoảng vào chầu vua mà thôi. Cứ cách năm trăm năm lại cho giáng sinh, cao thì làm đến khanh tướng, thấp cũng làm được sĩ phu, hiệu doãn. Ngoài ra còn đến hơn trăm tòa sở nữa, nhưng trời gần sáng không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần. Xuống đến cửa Bắc, thấy trăm quan đã lục tục vào triều chầu vua.
Tử Hư từ biệt thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo cho biết.
(Nguyễn Dữ, Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào, in trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch), NXB Văn học, Hà Nội, 1999, tr.319 – 325)
* Chú thích:
(1)Tử đồng: Nơi ở của Đế Quân Văn Xương, trông coi về văn học.
(2)Mông Chính: Người đời Tống, thi đỗ trạng nguyên. Khi nghe tin Mông Chính đỗ, Hồ Đán Phủ phàn nàn rằng: “Thôi thế là sang năm ta đỗ, lại phải sau hắn một thẻ rồi.”. Quả nhiên, sang năm Hồ đỗ thật.
(3)Hạ Hầu: Hạ Hầu Thắng là một danh Nho đời Hán. Ông thường nói: “Kẻ sĩ chỉ sợ không sáng nghĩa kinh, nếu sáng thì lấy áo xanh, áo tía dễ dàng như lặt cỏ rác ở dưới đất vậy.”.
(4)Tô Hiến Thành: Làm quan dưới triều Lý Anh Tông và Lý Cao Tông, được sư khen là cao minh chính trực.
(5)Chu Văn An: Người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Đàm, nay là xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thời Trần, ông được giao chức Tư nghiệp Quốc tử giám, là một vị thầy học trung tín cương trực, không sợ quyền thế, không ham tước vị; từng dâng sớ xin chém bảy kẻ lộng thần, được triều đình và kẻ sĩ đương thời nể trọng.
Câu 1. Chỉ ra một chi tiết thể hiện rõ yếu tố kì ảo trong văn bản trên.
Câu 2. Theo lời của Dương Trạm, tại sao ông lại được giữ chức trực lại ở cửa Tử đồng?
Câu 3. Nhận xét về tính cách nhân vật Tử Hư trong văn bản.
Câu 4. Dựa vào việc tìm hiểu các cước chú trong văn bản, hãy nhận xét về tác dụng của việc dùng các điển cố trong tác phẩm.
Câu 5. Từ câu chuyện về những điều Phạm Tử Hư được chứng kiến trong chuyến đi thăm thiên tào, anh/ chị rút ra bài học nào có ý nghĩa về lẽ sống cho bản thân?
Dưới đây là gợi ý trả lời hai câu nghị luận của bạn:
Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” trong đoạn trích
Trong đoạn trích, diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi” được thể hiện tinh tế qua từng cung bậc cảm xúc. Ban đầu, “tôi” mang trong mình cảm giác hồi hộp, lo lắng, thậm chí có phần tự ti trước hoàn cảnh hoặc sự kiện đang diễn ra. Những suy nghĩ, trăn trở nội tâm khiến “tôi” trở nên nhạy cảm với mọi thay đổi xung quanh. Khi đối diện với sự vật, sự việc hoặc con người có ý nghĩa đặc biệt, tâm trạng “tôi” chuyển sang bối rối, xen lẫn niềm vui và sự xúc động. Đặc biệt, khi nhận ra giá trị của những điều giản dị, gần gũi, “tôi” cảm thấy hạnh phúc, biết ơn và trân trọng hơn cuộc sống. Diễn biến tâm trạng ấy không chỉ phản ánh chiều sâu nội tâm mà còn cho thấy sự trưởng thành, thức tỉnh trong nhận thức của nhân vật. Qua đó, tác giả gửi gắm thông điệp về sự trân trọng những điều bình dị, về giá trị của cảm xúc chân thành trong cuộc sống.
Câu 2 (4,0 điểm): Nghị luận (khoảng 600 chữ) về văn hóa ứng xử nơi công cộng của thế hệ trẻ ngày nay
Trong xã hội hiện đại, văn hóa ứng xử nơi công cộng là thước đo quan trọng đánh giá ý thức và nhân cách của mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Trong những ngày cả nước tưng bừng kỉ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta càng tự hào về truyền thống dân tộc, càng nhận thấy rõ hơn vai trò của văn hóa ứng xử trong việc xây dựng hình ảnh con người Việt Nam văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những câu chuyện đẹp về lòng yêu nước, sự đoàn kết, vẫn còn không ít hành vi ứng xử thiếu văn hóa nơi công cộng. Đó có thể là việc chen lấn, xô đẩy ở nơi đông người; nói chuyện lớn tiếng, thiếu tôn trọng không gian chung; xả rác bừa bãi, phá hoại của công; hay thậm chí là những hành động thiếu lịch sự trên mạng xã hội. Những hành vi ấy không chỉ làm xấu đi hình ảnh cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng, gây mất trật tự, văn minh nơi công cộng.
Từ trải nghiệm cá nhân, tôi nhận thấy rằng, mỗi người trẻ đều có thể góp phần xây dựng văn hóa ứng xử tốt đẹp bằng những hành động nhỏ nhưng ý nghĩa. Đó là việc xếp hàng trật tự khi mua vé, giữ gìn vệ sinh chung, nói lời cảm ơn, xin lỗi đúng lúc, hay đơn giản là mỉm cười thân thiện với người xung quanh. Những hành động ấy, dù nhỏ bé, nhưng lại lan tỏa giá trị tích cực, góp phần xây dựng một xã hội văn minh, lịch sự.
Văn hóa ứng xử nơi công cộng không chỉ thể hiện trình độ nhận thức mà còn là biểu hiện của lòng tự trọng và trách nhiệm với cộng đồng. Thế hệ trẻ ngày nay cần nhận thức rõ rằng, mỗi hành động, lời nói của mình đều góp phần tạo nên diện mạo xã hội. Việc giữ gìn và phát huy văn hóa ứng xử không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam.
Để xây dựng văn hóa ứng xử nơi công cộng, ngoài ý thức tự giác của mỗi cá nhân, rất cần sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, nhắc nhở, xây dựng các chuẩn mực ứng xử phù hợp. Chỉ khi mỗi người trẻ đều ý thức được vai trò của mình, chúng ta mới có thể xây dựng một môi trường sống lành mạnh, văn minh, góp phần khẳng định vị thế của dân tộc trên trường quốc tế.
Tóm lại, văn hóa ứng xử nơi công cộng là yếu tố then chốt làm nên một xã hội phát triển bền vững. Thế hệ trẻ hãy là những người tiên phong, lan tỏa những giá trị tốt đẹp, góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam văn minh, hiện đại trong mắt bạn bè quốc tế.
Nếu bạn cần chỉnh sửa cho phù hợp với đoạn trích cụ thể hoặc muốn mở rộng thêm ý, hãy cho mình biết nhé!