K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1 (2,0 điểm). Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc tự lập trong cuộc sống.Câu 2 (4,0 điểm).Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích tình cảm của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ sau:“Khi tôi vun trồng xanh những ước mơMẹ gánh mùa dông xuống đồng chiêm mặnLội dòng sông tát ánh trăng chống hạnCây lúa gầy nhễ nhại giọt phù sa. […] Cơn gió...
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm). Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của việc tự lập trong cuộc sống.

Câu 2 (4,0 điểm).

Viết bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích tình cảm của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ sau:

Khi tôi vun trồng xanh những ước mơ

Mẹ gánh mùa dông xuống đồng chiêm mặn

Lội dòng sông tát ánh trăng chống hạn

Cây lúa gầy nhễ nhại giọt phù sa.

 

[…] Cơn gió Lào cho mắt mẹ âu lo

Cỏ dại mọc tràn bờ xôi, ruộng mật

Đám lá lúa cứa nóng bừng da mặt

Ngọn cỏ gừng đâm nhói những bước chân.

 

[…] Và tôi như hạt thóc vàng bé nhỏ

Mẹ đã gieo hi vọng ở trên đồng

Chợt lo sợ ngày cuối mùa, hết vụ

Hạnh phúc mẹ chờ chẳng kịp trổ bông.

(Trích “Mẹ và cánh đồng” – Trần Văn Lợi, “Miền gió cát”, NXB Thanh niên, 2000)

Chú thích: Nhà giáo, nhà thơ Trần Văn Lợi sinh năm 1976 tại Nam Định, hiện là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định. Với niềm đam mê sáng tạo văn chương, ông không chỉ nổi vật trong lĩnh vực thơ ca mà còn sáng tác nhiều truyện ngắn, tản văn và nghiên cứu phê bình sâu sắc. Thơ Trần Văn Lợi giống tư chất của ông ngoài đời: chân thành, giản dị, trầm lắng mà đằm sâu, tha thiết, thể hiện một tâm hồn phong phú, luôn gắn bó sâu sắc với làng quê, với những con người thân thuộc trong cuộc sống. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: “Miền gió cát” (2000); “Lật mùa” (2005); “Bàn tay châu thổ” (2010); “Đã như là hoá thạch những mồ hôi” (2019); “Qua những mùa trăng” (2015) và “Mùa hoa xoan tím” (2016).

0
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:“… Có lẽ các bạn trẻ ai cũng mang trong mình ước mơ và hi vọng sẽ làm được điều gì đó vĩ đại trong cuộc đời. Nhưng, trước hết, các bạn nên biết rằng điều vĩ đại chỉ sinh ra từ những nỗ lực âm thầm từng bước. Nếu chỉ vẽ lên ước mơ to lớn mà không âm thầm nỗ lực thực hiện thì suốt cả đời ước mơ cũng chỉ là mơ...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

… Có lẽ các bạn trẻ ai cũng mang trong mình ước mơ và hi vọng sẽ làm được điều gì đó vĩ đại trong cuộc đời. Nhưng, trước hết, các bạn nên biết rằng điều vĩ đại chỉ sinh ra từ những nỗ lực âm thầm từng bước. Nếu chỉ vẽ lên ước mơ to lớn mà không âm thầm nỗ lực thực hiện thì suốt cả đời ước mơ cũng chỉ là mơ ước mà thôi.

Không có chiếc thang máy tiện lợi nào dành riêng cho cuộc đời mình cả. Chỉ có thể đi lên bằng đôi chân và sức lực của chính mình. Đừng ảo tưởng sẽ có con đường đi tắt, đừng ảo tưởng sẽ có thủ đoạn chớp cơ hội để biến ước mơ thành hiện thực. Phương pháp tốt nhất thực hiện giấc mơ là tiến từng bước, từng bước chắc chắn như con ốc sên trên con đường thực hiện giấc mơ.

Có lẽ các bạn trẻ sẽ kêu lên rằng: “Bước từng bước như lời ông khuyên thì có mất cả đời cũng chưa chắc đã đi hết một con đường.”. […] Trên thực tế, quá trình tích tụ từng bước, từng bước sẽ tạo ra hiệu quả cấp số nhân như thể có phép thần vậy. Chính những nỗ lực mới, rồi đến một ngày bạn chợt nhận thấy nó chất cao như ngọn núi sừng sững không thể ngờ tới. Đó là phương pháp để biến giấc mơ trong học tập, trong thể thao hay trong công việc thành hiện thực.

(Trích “Ước mơ của bạn nhất định thành hiện thực”, Inamori Kazuo, dịch giả Phạm Hữu Lợi, NXB Trẻ 2023, tr.94,95)

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích.

Câu 2 (0,5 điểm). Theo tác giả, những nỗ lực âm thầm sẽ mang lại điều gì trong cuộc đời con người?

Câu 3 (1,0 điểm). Em hiểu như thế nào về ý kiến sau: “Không có chiếc thang máy tiện lợi nào dành riêng cho cuộc đời mình cả.”?

Câu 4 (1,0 điểm). Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn sau: “Chính những thành quả nhỏ nhoi sinh ra nhờ nỗ lực âm thầm mỗi ngày sẽ kéo theo những thành quả và nỗ lực mới, rồi đến một ngày bạn chợt nhận thất nó chất cao như ngọn núi sừng sững không thể ngờ tới.”.

Câu 5 (1,0 điểm). Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất đối với em? Vì sao?

0
Đọc văn bản sau: Ý NGHĨ VỀ THÀNH PHỐ LÚC VÀO XUÂN (Trích)(1) “Hàng trăm năm đã nên bãi sa bồiHàng ngàn năm đã nên làng nên xómHàng vạn năm đã nên thành phố lớnQua bao đời thành phố có nhà tôi” (2) Căn phòng tôi ở giữa thành phố lớnNhỏ nhoi và ẩn khuất mãi bên trongNhưng mùa xuân độ lượng công bằngXuân đã đến, tôi nhận vào tất cảTôi nghe tiếng rì rào trong kẽ...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

Ý NGHĨ VỀ THÀNH PHỐ LÚC VÀO XUÂN

(Trích)

(1) “Hàng trăm năm đã nên bãi sa bồi

Hàng ngàn năm đã nên làng nên xóm

Hàng vạn năm đã nên thành phố lớn

Qua bao đời thành phố có nhà tôi”

 

(2) Căn phòng tôi ở giữa thành phố lớn

Nhỏ nhoi và ẩn khuất mãi bên trong

Nhưng mùa xuân độ lượng công bằng

Xuân đã đến, tôi nhận vào tất cả

Tôi nghe tiếng rì rào trong kẽ lá

Tiếng mùa xuân đang chuyển nhựa lên cành

Tôi nhìn ra bất chợt một màu xanh

Làm trẻ lại những con đường phố xá

Ngạt ngào hương, ngạt ngào hương trong gió

Xuân đi qua vầng trán những ngôi nhà

Sớm xuân này mặt đất đầy hoa

Những gương mặt rạng ngời sau cửa kính

[...]

 

(3) Sẽ có ngày tóc tôi trắng như bông

Đi giữa dòng người, đi giữa tháng năm

Mà thành phố vẫn xanh như thế đó

Lòng tôi lại yếu mềm như trẻ nhỏ

Khát khao đi, hồi hộp mỗi khi về.

(Xuân Quỳnh, Không bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn, 2021, tr. 170)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Nêu điểm chung về nhịp thơ trong đoạn (1) của văn bản.

Câu 2 (0,5 điểm). Chỉ ra những giác quan được huy động để cảm nhận mùa xuân trong đoạn (2).

Câu 3 (1,0 điểm). Nhận xét về tình cảm, cảm xúc của nhân vật “tôi” với mùa xuân, với thành phố thể hiện trong văn bản.

Câu 4 (1,0 điểm). Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nhân hóa được sử dụng ở hai dòng thơ:

“Tôi nhìn ra bất chợt một màu xanh

Làm trẻ lại những con đường phố xá”

Câu 5 (1,0 điểm). Mùa xuân này em bước sang tuổi mới. Hãy chia sẻ ý nghĩ về mùa xuân tuổi 15 của em trong khoảng 5 – 7 dòng.

1
5 tháng 5

Câu 1 (0,5 điểm):
Nhịp thơ trong đoạn (1) đều đặn, nhịp 4/4, tạo cảm giác trang nghiêm, sâu lắng và nhấn mạnh sự trường tồn, phát triển của thành phố qua thời gian.


Câu 2 (0,5 điểm):
Các giác quan được huy động để cảm nhận mùa xuân trong đoạn (2) là:

  • Thính giác: “Tôi nghe tiếng rì rào...”
  • Thị giác: “Tôi nhìn ra bất chợt một màu xanh”
  • Khứu giác: “Ngạt ngào hương, ngạt ngào hương trong gió”

Câu 3 (1,0 điểm):
Nhân vật “tôi” thể hiện tình cảm gắn bó, yêu thương và đầy xúc động với mùa xuân và thành phố. Mùa xuân đem đến cho “tôi” niềm vui, sự tươi mới, làm sống dậy những cảm xúc trẻ trung và khao khát. Với thành phố, “tôi” có sự gắn bó lâu dài, sâu đậm, coi đó là nơi thân quen, đầy kỉ niệm.


Câu 4 (1,0 điểm):
Biện pháp tu từ nhân hóa trong câu:

“Tôi nhìn ra bất chợt một màu xanh
Làm trẻ lại những con đường phố xá”
→ khiến cho hình ảnh mùa xuân trở nên sống động, gần gũi hơn. Việc “màu xanh làm trẻ lại phố xá” gợi cảm giác tươi mới, hồi sinh cho cả thành phố, làm nổi bật sức sống mạnh mẽ mà mùa xuân mang đến.


Câu 5 (1,0 điểm):
Mùa xuân tuổi 15 của em là mùa xuân đặc biệt. Em cảm thấy mình trưởng thành hơn, biết ước mơ, biết suy nghĩ cho tương lai. Mùa xuân như tiếp thêm cho em năng lượng, sự lạc quan để bước tiếp trên hành trình học tập và khôn lớn. Giữa sắc xuân rực rỡ, em thầm biết ơn cuộc sống và mong muốn sống thật ý nghĩa.

Nhắc đến trò chơi dân gian của Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến thả diều. Một trò chơi xuất hiện từ rất lâu rồi nhưng vẫn còn tồn tại đến tận ngày hôm nay.

Trò chơi thả diều đã có từ ngàn xưa, được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam Ở Việt Nam. Với tuổi thơ của rất nhiều người, hình ảnh những cánh diều trên cánh đồng quê đã trở nên vô cùng quen thuộc. Hay hình ảnh những chú bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thả diều đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam.

Cánh diều thường có hình trăng lưỡi liềm. Khung diều làm bằng cật tre mềm, khi nâng lên phải nhẹ nhưng vẫn giữ được độ chắc chắn. Cánh diều có hình dáng cong cong, nhìn từ xa giống như là hình lưỡi liềm. Nguyên liệu chính dùng để làm diều là giấy bản. Cách làm diều trông có vẻ đơn giản nhưng vẫn đòi hỏi sự khéo léo mới có thể làm được. Diều sáo là một loại hình diều được ưa chuộng bởi khi lên cao, tiếng gió thổi vào cây sáo sẽ tạo thành âm thanh du dương, tha thiết.

Thả diều là một trò chơi dân gian thú vị, hấp dẫn của mọi lứa tuổi. Người chơi sẽ dựa vào sức gió của thiên nhiên để đưa diều lên cao qua một sợi dây dài. Gió không mạnh quá và không được nhẹ quá. Thời điểm thích hợp nhất là buổi chiều gió lộng. Hình ảnh những đứa trẻ tụ tập trên những khu đất trống cùng nhau hò hét, chạy theo cánh diều đã là hình ảnh quen thuộc ở làng quê Việt Na,

Ngày nay, diều vẫn nhận được sự yêu thích của mọi tầng lớp thế hệ qua những hình dáng, màu sắc đầy sáng tạo. Các cuộc thi thả diều lớn được tổ chức thường niên và nhận được nhiều sự quan tâm của mọi người.

À mà mấy bài này trên mạng có nhiều lắm mà bn^^'

trò ô ăn quan rất hay.

hết

Trong kho tàng trò chơi dân gian Việt Nam, Ô ăn quan là một trò chơi trí tuệ hấp dẫn, gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ. Không chỉ đơn thuần là một trò giải trí, Ô ăn quan còn giúp người chơi rèn luyện tư duy chiến thuật và khả năng tính toán, phản ánh sự thông minh, sáng tạo của người Việt.

Trò chơi này đã xuất hiện từ lâu đời và trở thành một nét đẹp văn hóa không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam ta. Trên khắp dải đất hình chữ S, đâu đâu con người cũng biết đến trò chơi thân quen này. Nó xuất hiện trong các gia đình, trường học và cả những buổi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Dù được chơi ở đâu, trò chơi vẫn mang màu sắc riêng biệt không thể lẫn với bất kỳ trò chơi nào khác.

Để chơi Ô ăn quan, người ta thường vẽ bàn chơi trên nền đất hoặc sử dụng bàn chơi cố định với hai ô quan lớn ở hai đầu và mười ô dân chia đều thành hai bên. Quân chơi có thể là sỏi, hạt hoặc bất kỳ vật nhỏ nào. Khi bắt đầu, mỗi ô dân chứa một số quân bằng nhau, còn hai ô quan có số quân nhiều hơn. Người chơi lần lượt thực hiện nước đi bằng cách lấy hết quân trong một ô và rải đều vào các ô tiếp theo. Nếu quân rơi vào một ô trống, sau đó là ô có quân, người chơi sẽ được ăn hết số quân trong ô đó. Trò chơi kết thúc khi toàn bộ quân trên bàn được ăn hết, người có số quân nhiều hơn sẽ giành chiến thắng.

Ô ăn quan không chỉ là trò chơi mang tính giải trí mà còn yêu cầu sự tính toán khéo léo. Người chơi phải có sự nhanh nhạy trong tư duy và khả năng quan sát tốt. Trò chơi giúp phát triển trí tuệ, rèn luyện tư duy chiến thuật và tăng cường sự nhạy bén trong các tính toán. Ngoài ra, trò chơi còn tạo ra những giây phút vui vẻ, giúp người chơi gắn kết với nhau và phát triển tình bạn.

Ngày nay, dù xã hội phát triển với nhiều hình thức giải trí hiện đại, Ô ăn quan vẫn giữ được vị trí đặc biệt trong nền văn hóa dân gian Việt Nam. Không chỉ là một trò chơi, Ô ăn quan còn mang giá trị truyền thống, giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về những nét đẹp văn hóa của dân tộc. Việc tiếp tục duy trì và phát triển trò chơi này không chỉ giúp bảo tồn bản sắc dân tộc mà còn lưu giữ những ký ức tuổi thơ đáng nhớ của nhiều thế hệ người Việt.

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:CON CHIM QUÊN TIẾNG HÓT(NGUYỄN QUANG SÁNG) Bà nội tôi là kho chuyện đời xưa, mỗi đêm một chuyện cho đàn cháu nội, cháu ngoại, lũ nhỏ vây quanh bà trên bộ ván ngựa gỗ giữa nhà trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu. Chuyện này không phải là chuyện đời xưa. Chuyện của nhà mình nhưng lúc đó bà còn trẻ, tụi con chưa có, vậy cũng là chuyện...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

CON CHIM QUÊN TIẾNG HÓT

(NGUYỄN QUANG SÁNG)

Bà nội tôi là kho chuyện đời xưa, mỗi đêm một chuyện cho đàn cháu nội, cháu ngoại, lũ nhỏ vây quanh bà trên bộ ván ngựa gỗ giữa nhà trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu.

Chuyện này không phải là chuyện đời xưa. Chuyện của nhà mình nhưng lúc đó bà còn trẻ, tụi con chưa có, vậy cũng là chuyện đời xưa phải không? Đêm ấy, bà kể:

Ông tôi có nuôi một con nhồng. Con nhồng đẹp lạ lắm. Nó như một cô công chúa khoác chiếc áo choàng đen, ấy là bộ lông mượt mà của nó, từ mí mắt kéo đến cổ nó là một đường vàng hình lưỡi câu. Viền quanh cổ là một đường mầu trắng, như công chúa quấn qua cổ chiếc khăn bằng lông cừu, mỏ vàng và đôi chân cũng vàng. Ông tôi vốn là một thợ mộc, cho nên cái lồng của nó như một cái lâu đài. Con nhồng lúc nào cũng vui tươi, nhảy nhót trong chiếc lồng lộng lẫy treo trước hiên nhà. Vừa đẹp, lại vừa biết nói, nó là niềm vui của cả xóm, không chỉ cho trẻ con mà cho cả người lớn. Thấy có người thoáng qua, nó cất tiếng: "Chào khách.". Khi người dừng lại trước mặt nó, nó hỏi: "Khỏe không?". Ai hỏi gì thì nó dạ. Nó bắt chước giọng ông, nó gọi bà: "Em ơi, em!". Nó bắt chước giọng bà, nó gọi ông: "Anh ơi, anh!". Trong nhà đang nói chuyện, bỗng chợt nghe tiếng cười, nó cười: "Khậc khậc." y như giọng cười của ông. Thỉnh thoảng nó lại cất tiếng: "Thôi, thôi thôi!" nghe như lời can gián thiết tha của một cô gái.

Khách ! Ngồi trong nhà nghe nó nói, biết là có khách sắp vào nhà.

Người lớn hay trẻ nhỏ hàng xóm, mỗi lần đến chơi với nó cũng cho nó một trái ớt. Thò mỏ gắp trái ớt, nó mừng nó nhảy.

Trong nhà ai cũng dạy nó tiếng nói lịch sự, lễ phép. Nhưng hình như bấy nhiêu tiếng đó, nghe hoài cũng nhàm, bớt vui. Chẳng biết đứa nhỏ nào cắc cớ dạy thêm cho nó vài tiếng chửi cục cằn: "Đồ đểu, cút, cút đi!".

Ngày đầu, nghe những tiếng lạ lùng đó, bọn nhỏ vỗ tay và nó được nhiều ớt hơn mọi ngày.

Nhỏ vui đã đành, người lớn cũng vui... nghe nó chưởi "Đồ đểu!" người nghe không nghĩ là mình đểu nên chẳng ai giận, nghe nó bảo "Cút, cút!" người ta không cút mà cười và lại thưởng cho nó ớt ngon hơn, nhiều hơn. Nó nói riết thành quen không ai để ý nó quên tiếng hót từ lúc nào.

Bỗng một hôm có một chiếc xe hơi đậu lại trước nhà. Quan huyện từ trong xe bước ra. Một người to lớn bệ vệ trong bộ đồ tây trắng, cà vạt đỏ, giày đen. Quan huyện đến để đặt ông đóng nhái bộ salon thời Louis. Đã là quan thì phải oai quyền, trước mặt ai, không chào không hỏi.

Quan huyện vào tới cửa thì con nhồng cất tiếng:

Đồ đểu!

Quan huyện giật mình:

Đồ đểu! Đồ đểu!

Thấy quan huyện không thưởng cho nó trái ớt, nó lại cất tiếng:

Đồ đểu! Đồ đểu!

Quan huyện trợn tròn hai con mắt. Ông tôi thấy vậy sợ điếng, vội cúi rạp mình rước quan vào. Ông liếc nhìn bà. Hiểu ý ông, bà rối rít mời quan ngồi, rót nước mời quan uống.

Đang chào đang hỏi khách, bà bỗng nghe bên ngoài có tiếng đánh "bốp" một cái. Bà bước ra, bà thấy con chim bị ông đập vào cây cột, nát đầu. Trên thân cột còn một đốm máu bê bết, còn con nhồng thì nằm dưới đất như một miếng giẻ rách đen. Chẳng biết ông sợ hay ông giận, bà chỉ nghe ông lẩm bẩm:

Không! Nó bảo "Cút đi!" thì nhà này chỉ có chết.

Thương con nhồng, bà tôi quỳ xuống trước cái xác của nó. Chẳng biết lúc ấy bà tôi đau đớn thế nào, bây giờ trong ánh đèn dầu, tôi thấy hai giọt nước mắt của bà.

Con chim chết, hết chuyện, bọn tôi có đứa thò chân xuống đất, bà đưa tay kéo lại. Và sau câu chuyện bao giờ bà cũng rút lời răn dạy:

Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó, các con!

(Nguyễn Quang Sáng, NXB Văn học)

Câu 1 (0,5 điểm). Văn bản được kể theo ngôi kể nào? Việc lựa chọn ngôi kể này có tác dụng gì trong việc thể hiện chủ đề của văn bản?

Câu 2 (0,5 điểm). Hãy tìm một chi tiết trong truyện thể hiện sự yêu quý của mọi người dành cho con nhồng.

Câu 3 (1,0 điểm). Câu văn sau sử dụng cách dẫn trực tiếp hay gián tiếp? Dấu hiệu nào giúp em nhậ ra điều đó?

     Thỉnh thoảng nó lại cất tiếng: "Thôi, thôi thôi!" nghe như lời can gián thiết tha của một cô gái.

Câu 4 (1,0 điểm). Theo em qua câu chuyện về con nhồng, tác giả muốn gửi đến người đọc bài học gì?

Câu 5 (1,0 điểm). Em có đồng ý với lời dặn của người bà ở cuối truyện không? Vì sao?

     Cho nên, biết thì nói, không biết thì đừng nói theo lời người khác, chết oan đó, các con!

0
5 tháng 5

Em sẽ báo cho cơ quan chức năng, tuyên truyền bảo vệ môi trường, kêu gọi cộng đồng cùng phản đối.

Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn cảm nhận của em về nhân vật ông ngoại trong đoạn trích sau:ÔNG NGOẠI (Lược phần đầu: Người nhà Dung đi nước ngoài, Dung sang ở với ông ngoại. Ban đầu Dung không hòa nhập được với cuộc sống mới, than thở với mẹ và người mẹ khuyên cố gắng chăm ông thay mẹ...) Dung anh ách lái xe về nhà ngoại, cậu đi để lại chiếc Chaly màu xanh, Dung dùng đi học....
Đọc tiếp

Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn cảm nhận của em về nhân vật ông ngoại trong đoạn trích sau:

ÔNG NGOẠI

(Lược phần đầu: Người nhà Dung đi nước ngoài, Dung sang ở với ông ngoại. Ban đầu Dung không hòa nhập được với cuộc sống mới, than thở với mẹ và người mẹ khuyên cố gắng chăm ông thay mẹ...)

Dung anh ách lái xe về nhà ngoại, cậu đi để lại chiếc Chaly màu xanh, Dung dùng đi học. Hồi sáng này, ông ngoại dắt xe ra đến cửa Dung hỏi:

– Ngoại định đi đâu?

– Ông lên quận một chút.

Dung ngăn:

– Thôi, ngoại già rồi, không nên lái xe, có đi, con chở ông đi.

Ông tỏ vẻ giận, quầy quả vào nhà. Ôi, người già sao mà khổ đến vậy.

Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Thế giới của ông là mấy ông bạn già, là mấy chồng nhựt báo, là cái radio đâu hồi còn đánh nhau, là trầm tư suy ngẫm, là mảnh sân hoa trái. Thế giới của Dung là tiếng nhạc gào thét xập xình, là sắc màu xanh đỏ, là quả đất như nằm gọn trong bàn tay. Sáng nó dậy thật sớm để nấu cơm, sau đó đi học, chiều lại học, buổi tối nó vù xe đến bạn chơi hoặc về nhà nghe mấy đứa em cãi nhau ỏm tỏi. Hai thế giới vừa giành giựt vừa hoà tan nhau.

[...]

Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi. Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi “Chị hai khó như một bà già”, Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường nhận lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. Chủ nhật Dung cắm cúi lau chùi bên dàn karaoke phủ bụi, ông đứng lên nheo mắt:

– Sao con không hát, con hát rất hay mà. Dung thoáng ngỡ ngàng, nó hỏi:

– Ngoại có thích nghe không?

Rồi mở máy. Hôm ấy Dung rất vui, lần đầu tiên nó hát cho riêng ông nghe và quan trọng nhất là ông đã ngồi lại đấy, gật gù.

(Trích truyện ngắn Ông ngoại – Nguyễn Ngọc Tư, Nhà xuất bản Trẻ, 2001)

* Chú thích

(1) Tác giả Nguyễn Ngọc Tư: Là nữ nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam được biết đến với phong cách viết giản dị nhưng sâu sắc, mang đậm chất Nam Bộ và thường tập trung vào những câu chuyện về đời sống người dân miền Tây sông nước.

 (2) Truyện ngắn "Ông ngoại":

– Đây là một tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh chủ đề tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm giữa các thế hệ trong gia đình.

– Câu chuyện xoay quanh nhân vật Dung, một cô gái trẻ sống cùng ông ngoại sau khi gia đình đi nước ngoài. Ban đầu, hai ông cháu có khoảng cách rõ rệt do lối sống và tuổi tác. Tuy nhiên, qua thời gian, Dung dần thấu hiểu và hòa nhập với ông, từ đó thấy quý trọng những giá trị tinh thần và tình cảm gia đình.

Câu 2 (4,0 điểm): Viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề: Học sinh phải làm gì để vượt qua áp lực học tập và thi cử?

1
5 tháng 5

Bài thơ trên sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tạo nên sự sống động, sinh động cho hình ảnh và cảm xúc:

Ảo ảnh (Imagery): Bài thơ sử dụng hình ảnh một cách phong phú để tạo ra một bức tranh sống động về quê hương. Ví dụ, “mưa thánh thót”, “bông súng nở ao làng”, “màu khói tỏa mong manh” đều gợi lên những hình ảnh quen thuộc của quê hương.
So sánh (Simile): Tác giả sử dụng so sánh để làm nổi bật hình ảnh, như “Nở như sao sáng trên làn nước xanh” so sánh bông súng với sao sáng, tạo nên sự tươi mới, lung linh của hình ảnh.
Lặp đi lặp lại (Repetition): Từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, tạo nên sự nhấn mạnh về nỗi nhớ, lòng yêu quê hương sâu sắc của người nói.
Ngụy biện (Hyperbole): “Hồn quê theo khói lên trời từ lâu” là sự phóng đại về tình yêu quê hương, thể hiện sự gắn bó mãnh liệt và lâu dài.
Những biện pháp tu từ này giúp tăng cường hiệu quả biểu đạt, làm cho bài thơ trở nên phong phú, sinh động và đầy cảm xúc.