Câu 1 (2,0 điểm): Viết đoạn văn cảm nhận của em về nhân vật ông ngoại trong đoạn trích sau:
ÔNG NGOẠI
(Lược phần đầu: Người nhà Dung đi nước ngoài, Dung sang ở với ông ngoại. Ban đầu Dung không hòa nhập được với cuộc sống mới, than thở với mẹ và người mẹ khuyên cố gắng chăm ông thay mẹ...)
Dung anh ách lái xe về nhà ngoại, cậu đi để lại chiếc Chaly màu xanh, Dung dùng đi học. Hồi sáng này, ông ngoại dắt xe ra đến cửa Dung hỏi:
– Ngoại định đi đâu?
– Ông lên quận một chút.
Dung ngăn:
– Thôi, ngoại già rồi, không nên lái xe, có đi, con chở ông đi.
Ông tỏ vẻ giận, quầy quả vào nhà. Ôi, người già sao mà khổ đến vậy.
Thế nghĩa là có hai thế giới ở trong ngôi nhà. Thế giới của ông là mấy ông bạn già, là mấy chồng nhựt báo, là cái radio đâu hồi còn đánh nhau, là trầm tư suy ngẫm, là mảnh sân hoa trái. Thế giới của Dung là tiếng nhạc gào thét xập xình, là sắc màu xanh đỏ, là quả đất như nằm gọn trong bàn tay. Sáng nó dậy thật sớm để nấu cơm, sau đó đi học, chiều lại học, buổi tối nó vù xe đến bạn chơi hoặc về nhà nghe mấy đứa em cãi nhau ỏm tỏi. Hai thế giới vừa giành giựt vừa hoà tan nhau.
[...]
Có những sự thay đổi Dung không thể ngờ được. Bây giờ mỗi đêm Dung trở mình nghe ông ngoại ho khúc khắc. Nghe cây mai nhỏ nứt mình, nảy chồi. Dung nghiện hương trầm tối tối ông thắp lên bàn thờ bà ngoại. Lắm khi lũ em Dung sang, chúng nó phá phách quậy tung cả lên, Dung mắng, chúng nó trề môi “Chị hai khó như một bà già”, Dung giật mình. Có lẽ quen với cái tĩnh lặng trong sân mà mỗi chiều Dung giúp ông tưới cây, cái khoảng không xanh lạc lõng trong khói bụi, đâu đó, trên tàng me già, dăm chú chim hót líu lo Dung quen dáng ông ngoại với mái tóc bạc, với đôi mắt hõm, cái cằm vuông, quen mỗi tháng một lần cọc cạch lên phường nhận lương hưu. Có một điều Dung ngày càng nhận ra tiếng ho của ông ngày càng khô và rời rạc như lời kêu cứu. Chủ nhật Dung cắm cúi lau chùi bên dàn karaoke phủ bụi, ông đứng lên nheo mắt:
– Sao con không hát, con hát rất hay mà. Dung thoáng ngỡ ngàng, nó hỏi:
– Ngoại có thích nghe không?
Rồi mở máy. Hôm ấy Dung rất vui, lần đầu tiên nó hát cho riêng ông nghe và quan trọng nhất là ông đã ngồi lại đấy, gật gù.
(Trích truyện ngắn Ông ngoại – Nguyễn Ngọc Tư, Nhà xuất bản Trẻ, 2001)
* Chú thích
(1) Tác giả Nguyễn Ngọc Tư: Là nữ nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam được biết đến với phong cách viết giản dị nhưng sâu sắc, mang đậm chất Nam Bộ và thường tập trung vào những câu chuyện về đời sống người dân miền Tây sông nước.
(2) Truyện ngắn "Ông ngoại":
– Đây là một tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Nguyễn Ngọc Tư xoay quanh chủ đề tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm giữa các thế hệ trong gia đình.
– Câu chuyện xoay quanh nhân vật Dung, một cô gái trẻ sống cùng ông ngoại sau khi gia đình đi nước ngoài. Ban đầu, hai ông cháu có khoảng cách rõ rệt do lối sống và tuổi tác. Tuy nhiên, qua thời gian, Dung dần thấu hiểu và hòa nhập với ông, từ đó thấy quý trọng những giá trị tinh thần và tình cảm gia đình.
Câu 2 (4,0 điểm): Viết bài văn trình bày suy nghĩ của em về vấn đề: Học sinh phải làm gì để vượt qua áp lực học tập và thi cử?
Bài thơ trên sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tạo nên sự sống động, sinh động cho hình ảnh và cảm xúc:
Ảo ảnh (Imagery): Bài thơ sử dụng hình ảnh một cách phong phú để tạo ra một bức tranh sống động về quê hương. Ví dụ, “mưa thánh thót”, “bông súng nở ao làng”, “màu khói tỏa mong manh” đều gợi lên những hình ảnh quen thuộc của quê hương.
So sánh (Simile): Tác giả sử dụng so sánh để làm nổi bật hình ảnh, như “Nở như sao sáng trên làn nước xanh” so sánh bông súng với sao sáng, tạo nên sự tươi mới, lung linh của hình ảnh.
Lặp đi lặp lại (Repetition): Từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, tạo nên sự nhấn mạnh về nỗi nhớ, lòng yêu quê hương sâu sắc của người nói.
Ngụy biện (Hyperbole): “Hồn quê theo khói lên trời từ lâu” là sự phóng đại về tình yêu quê hương, thể hiện sự gắn bó mãnh liệt và lâu dài.
Những biện pháp tu từ này giúp tăng cường hiệu quả biểu đạt, làm cho bài thơ trở nên phong phú, sinh động và đầy cảm xúc.