K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 4

1. Đoạn văn phân tích truyện “Hai người cha”

Truyện ngắn Hai người cha của Lê Văn Thảo là một tác phẩm giàu tính nhân văn, kể về cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa hai người lính – một người là cha nuôi, một người là cha ruột – cùng có chung tình yêu và sự hy sinh dành cho một đứa trẻ. Truyện khắc họa sâu sắc những mất mát, đau thương mà chiến tranh để lại, nhưng nổi bật hơn cả là tình yêu thương, sự thấu hiểu và lòng nhân hậu giữa con người với nhau. Qua lối kể chân thực, giản dị nhưng đầy cảm xúc, tác phẩm khiến người đọc xúc động trước sự cao cả của tình cha và thông điệp về lòng vị tha, bao dung trong cuộc sống. Truyện không chỉ nói về chiến tranh mà còn là lời ngợi ca tình người và phẩm chất cao đẹp của những người lính Việt Nam.

24 tháng 4

2. Đoạn văn phân tích nhân vật ông Tám Khoa

Ông Tám Khoa trong truyện Hai người cha là một người lính cách mạng đã dành cả tình thương, sự chăm sóc và hy sinh để nuôi dưỡng đứa con của đồng đội đã hy sinh. Nhân vật ông Tám hiện lên với vẻ đẹp của lòng vị tha, trách nhiệm và tình yêu thương không biên giới. Dù biết mình không phải là cha ruột, ông vẫn yêu thương đứa trẻ bằng cả tấm lòng. Khi gặp người cha ruột của bé, ông không oán trách, không tranh giành, mà ngược lại, nhường lại con cho người cha thực sự, một cách đầy xúc động và cao thượng. Hình ảnh ông Tám Khoa là biểu tượng cho người lính giàu lòng nhân ái, dám hy sinh vì đồng đội và sống trọn vẹn với chữ "nghĩa" giữa thời chiến.

21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý làm bài thi thử môn Ngữ văn lớp 10 theo đề bạn gửi:


I. Đọc hiểu (4,0 điểm)

Câu 1 (0,5 điểm)

Bài thơ được sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (mỗi khổ 4 câu, mỗi câu 7 chữ).


Câu 2 (0,5 điểm)

Mẹ dặn con "không nặng trong tâm những điều mất được" vì muốn con không buồn phiền, chán nản trước những mất mát trong cuộc sống, mà hãy luôn giữ tinh thần lạc quan, tin yêu để sống vui vẻ và ý nghĩa.


Câu 3 (1,0 điểm)

Cụm từ "Con hãy nhớ" sử dụng phép điệp ngữ.
Tác dụng của phép điệp ngữ là nhấn mạnh lời dặn dò của mẹ, tạo sự trang nghiêm, thân mật và giúp người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, sự quan tâm, yêu thương của mẹ dành cho con, đồng thời làm rõ chủ đề về tình yêu thương và sự động viên trong cuộc sống.


Câu 4 (1,0 điểm)

Câu thơ "Con hãy nhớ trong muôn triệu lí do / Không có lí do cho sự chùn bước" có ý nghĩa nhắc nhở con dù gặp bao nhiêu khó khăn, thử thách trong cuộc sống, cũng không được phép nản lòng, chùn bước mà phải luôn kiên trì, vững vàng tiến lên phía trước.


Câu 5 (1,0 điểm)

Là người con trong gia đình, em cần thể hiện tình cảm và trách nhiệm bằng cách yêu thương, kính trọng cha mẹ, chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ trong cuộc sống hàng ngày, học tập tốt để không phụ lòng cha mẹ, đồng thời biết lắng nghe, chia sẻ và luôn giữ mối quan hệ hòa thuận trong gia đình.


II. Viết (6,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm)

Gợi ý đoạn văn phân tích lời dặn dò của người mẹ trong đoạn thơ:

Đoạn thơ thể hiện những lời dặn dò chân thành và sâu sắc của người mẹ dành cho con giữa bộn bề cuộc sống. Người mẹ nhắc nhở con phải biết nhận và cho, biết chia sẻ với mọi người, sống bao dung và nhân ái. Điều đó giúp con mở rộng tấm lòng, đón nhận tình yêu thương từ cuộc đời. Bên cạnh đó, mẹ còn dặn con không nên chùn bước trước khó khăn, không để những điều đã mất làm nặng lòng, mà phải giữ vững niềm tin và tin yêu cuộc sống. Những lời dặn ấy không chỉ là sự động viên, khích lệ mà còn là bài học về cách sống lạc quan, biết yêu thương và sẻ chia. Qua đó, đoạn thơ gửi gắm thông điệp về tình yêu thương, sự kiên cường và lòng bao dung – những giá trị quý báu giúp con người vượt qua thử thách và sống hạnh phúc, ý nghĩa.


Nếu bạn cần gợi ý cho phần viết mở rộng hoặc các câu hỏi khác, hãy cho mình biết nhé!

21 tháng 5

Để giúp bạn làm bài, mình xin đưa ra các gợi ý sau:


Câu 1 (2,0 điểm):

Gợi ý đoạn văn nghị luận phân tích đặc sắc nghệ thuật:

(Để làm tốt câu này, bạn cần cung cấp văn bản ở phần Đọc hiểu để mình có thể phân tích cụ thể). Tuy nhiên, mình có thể đưa ra một số hướng phân tích chung:

  • Thể loại: Xác định thể loại của văn bản (thơ, truyện ngắn, tùy bút,...) và nêu đặc trưng của thể loại đó được thể hiện trong văn bản.
  • Ngôn ngữ: Phân tích cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,...) trong văn bản.
  • Giọng điệu: Xác định giọng điệu chủ đạo của văn bản (trữ tình, hài hước, nghiêm túc,...) và tác dụng của giọng điệu đó.
  • Kết cấu: Phân tích cách tổ chức, sắp xếp các phần của văn bản (mở đầu, thân bài, kết luận).
  • Các yếu tố khác: Nếu có, phân tích thêm các yếu tố như: cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian,...

Ví dụ (mang tính tham khảo):

"Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát truyền thống, với ngôn ngữ giản dị, gần gũi nhưng giàu sức gợi cảm. Tác giả đã sử dụng thành công biện pháp so sánh "..." để diễn tả ... (tác dụng). Bên cạnh đó, giọng điệu (trữ tình,...) cũng góp phần thể hiện sâu sắc (nội dung, cảm xúc). Kết cấu bài thơ chặt chẽ, mạch lạc, giúp người đọc dễ dàng theo dõi và cảm nhận được vẻ đẹp của (đối tượng miêu tả, biểu cảm)."


Câu 2 (4,0 điểm):

Gợi ý bài văn nêu suy nghĩ về việc biến cái cũ thành cái mới và biến cái mới thành cái quen thuộc:

1. Mở bài:

  • Giới thiệu vấn đề: Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn có xu hướng khám phá những điều mới lạ, đồng thời làm mới những điều quen thuộc.
  • Nêu ý kiến khái quát: Việc biến cái cũ thành cái mới và biến cái mới thành cái quen thuộc có vai trò quan trọng trong sự phát triển của cá nhân và xã hội.

2. Thân bài:

  • Giải thích:
    • Cái cũ: Những điều đã tồn tại, quen thuộc, có thể là kiến thức, kinh nghiệm, giá trị văn hóa, lối sống,...
    • Cái mới: Những điều chưa từng có, khác biệt so với những điều đã biết, có thể là ý tưởng, công nghệ, xu hướng,...
    • Biến cái cũ thành cái mới: Sáng tạo, cải tiến, đổi mới những điều đã có để phù hợp hơn với hiện tại.
    • Biến cái mới thành cái quen thuộc: Tìm hiểu, tiếp thu, ứng dụng những điều mới vào cuộc sống.
  • Phân tích ý nghĩa của việc biến cái cũ thành cái mới:
    • Giúp duy trì và phát triển những giá trị truyền thống, văn hóa.
    • Tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của xã hội.
    • Thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học, công nghệ.
    • Mang lại sự hứng thú, niềm vui trong cuộc sống.
  • Phân tích ý nghĩa của việc biến cái mới thành cái quen thuộc:
    • Giúp con người thích nghi với sự thay đổi của thế giới.
    • Mở rộng kiến thức, tầm nhìn.
    • Nâng cao năng lực, kỹ năng.
    • Tạo ra những cơ hội mới.
  • Bàn luận mở rộng:
    • Cần có thái độ đúng đắn với cái cũ và cái mới (không phủ nhận hoàn toàn cái cũ, không chạy theo cái mới một cách mù quáng).
    • Cần có sự kết hợp hài hòa giữa cái cũ và cái mới để tạo ra những giá trị tốt đẹp hơn.
  • Liên hệ bản thân:
    • Nêu những việc bản thân đã làm để biến cái cũ thành cái mới và biến cái mới thành cái quen thuộc.
    • Rút ra bài học cho bản thân.

3. Kết bài:

  • Khẳng định lại ý kiến: Việc biến cái cũ thành cái mới và biến cái mới thành cái quen thuộc là một quá trình tất yếu và cần thiết trong cuộc sống hiện đại.
  • Nêu thông điệp: Mỗi người cần chủ động, sáng tạo để làm mới bản thân và đóng góp vào sự phát triển của xã hội.

Chúc bạn làm bài tốt! Nếu bạn có văn bản cụ thể và muốn mình chỉnh sửa, hãy cung cấp để mình hỗ trợ chi tiết hơn nhé!

(4.0 ĐIỂM) Đọc văn bản:Trước khi đi học về, hãy để quên một cái gì đó(Lược trích: Lớp học của tôi bỗng xôn xao vì một chuyện lạ: thằng Tí là người luôn đi học sớm. Khi đến lớp, nó nhảy xổ đến bàn cô giáo nhặt một cái gì đó rồi đi về bàn mình và cười miết. Chúng tôi cố gắng đi sớm hơn những vẫn đến sau thằng Tí. Mãi cả tuần sau, tôi mới trở thành người đến...
Đọc tiếp

(4.0 ĐIỂM) Đọc văn bản:

Trước khi đi học về, hãy để quên một cái gì đó

(Lược trích: Lớp học của tôi bỗng xôn xao vì một chuyện lạ: thằng Tí là người luôn đi học sớm. Khi đến lớp, nó nhảy xổ đến bàn cô giáo nhặt một cái gì đó rồi đi về bàn mình và cười miết. Chúng tôi cố gắng đi sớm hơn những vẫn đến sau thằng Tí. Mãi cả tuần sau, tôi mới trở thành người đến lớp đầu tiên.)

Trên bàn cô giáo có một gói giấy nhỏ. Khi mở ra bên trong có một viên kẹo, chẳng biết ai đã để ở đây và để khi nào. Tôi vừa lột viên kẹo bỏ vào miệng thì vừa lúc thằng Tí xông vào.

Tôi hét to:

Tao biết bí mật của mày rồi!

Thằng Tí bĩu môi:

Tao đã ăn được những hai mươi viên.

Nhưng ai để lại vậy?

Tao không biết.

Giờ ra chơi, tụi bạn bu quanh tôi hỏi:

Cái gì vậy?

Tôi nhìn thằng Tí rồi cười cười. Bọn chúng tức điên lên, hỏi mãi, tôi cũng chỉ cười cười. Làm sao có thể cho bọn chúng biết điều bí mật ngọt ngào này được!

Cách vài hôm, lại thêm một đứa mới biết điều bí mật. Chúng tôi cứ nhìn nhau cười cười... Rồi dần dần, lớp chúng tôi ai cũng biết điều bí mật. Nhưng ai là người làm ra điều bí mật đó thì không được biết. Chúng tôi đã phân công nhiều ổ mai phục, nhưng cuối cùng chẳng thu được kết quả gì. Luôn luôn, vào sáng sớm, trên bàn cô lại xuất hiện một viên kẹo.

Lúc đầu chúng tôi cứ nghĩ là cô giáo Hà. Nhưng không phải. Cô luôn ra khỏi lớp khi trong phòng vẫn còn chúng tôi. Vậy thì ai? Nghĩ mãi vẫn không ra.

Một hôm tôi ngồi lì trong lớp, định ngồi đến sáng để chờ người lạ mặt nhưng vì đói bụng quá đành ôm sách về. Rồi tôi chợt nghĩ, tại sao mình không gởi cho người lạ mặt một lá thư. Thế là tôi viết ngay: "Gởi người lạ mặt. Anh là ai vậy, có thể cho tôi biết được không?"

Hôm sau tôi vào lớp sớm, trên bàn vẫn như thường lệ có một viên kẹo gói trong tờ giấy nhỏ. Không có thư trả lời, còn lá thư của tôi thì biến mất, chứng tỏ người lạ mặt đã lấy nó đi.

Tôi suy nghĩ lung lắm. Tại sao người lạ mặt không trả lời tôi? Một ý định khác chợt đến với tôi, tôi sẽ là người lạ mặt. Tại sao không chứ? Tôi cũng làm được vậy.

Hôm đó tôi giấu một trái ổi to tướng trong cặp. Đợi tụi bạn đi học về hết, gói nó lại bằng một tờ báo rồi đề chữ lên: Tôi - Người lạ mặt - có món quà nhỏ tặng người đến sớm.

Hôm sau, tôi nghe bọn chúng kháo nhau:

Đến hai người lạ mặt. Một người để trái ổi, một người để cục kẹo.

Hôm sau nữa bỗng xuất hiện ba người lạ mặt, rồi bốn, rồi năm, rồi sáu, bảy... Bây giờ thì chúng tôi vỡ lẽ ra rồi. Người lạ mặt đang ở trong lớp. Những buổi đi học về, đứa này cứ nhìn đứa kia nấn ná không muốn rời lớp. Chúng chính là những kẻ lạ mặt.

Nhưng người lạ mặt đầu tiên là ai, vẫn không biết.

Những buổi sáng đi học sớm, chúng tôi - những người lạ mặt - người lạ mặt này ăn món quà của người lạ mặt kia. Lâu lâu trong món quà còn kèm những câu hỏi rất vui. Và chúng tôi ngầm thỏa thuận trả lời những câu hỏi của nhau bằng những món quà. Nhưng chúng tôi vẫn ấm ức một điều, ai là người lạ mặt đầu tiên?

Tôi kể chuyện này cho bố nghe. Bố nói:

Đó mới là điều bí mật. Trong mỗi người bạn của con đều có một điều bí mật và một món quà, đúng chưa? Khi biết món quà của ai, ta sẽ yêu người đó mà không yêu những người khác. Khi nhận một món quà mà không biết ai gởi, con sẽ yêu tất cả những người con quen. Vì biết đâu, một trong số họ đã gởi món quà đó. Chúng ta không nên biết người lạ mặt để làm gì cũng là một điều hay...

Tôi đi học và tôi biết, mỗi buổi sáng luôn có một người bạn nào đó tặng tôi một món quà.

(Nguyễn Ngọc Thuần, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2024, tr.59 - 62)

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1 (0,5 điểm). Xác định ngôi kể của văn bản trên.

Câu 2 (0,5 điểm). Ghi lại câu có thành phần phụ chú trong văn bản trên.

Câu 3 (1,0 điểm). Theo em, điều bí mật mà người bố nhắc đến là gì? Vì sao?

Câu 4 (1,0 điểm). Cuối văn bản, nhân vật tôi khuyên mọi người trước khi đi học về, bạn hãy nhớ để quên một cái gì đó để trở thành người lạ mặt. Lời khuyên đó cho thấy mong muốn gì của cậu bé?

Câu 5 (1,0 điểm). Người bố của nhân vật tôi cho rằng: Khi nhận một món quà không biết ai gởi, con sẽ yêu tất cả những người con quen. Em có đồng tình với quan điểm này hay không? Vì sao? (Trình bày trong khoảng 3 – 5 dòng).

1
21 tháng 5

Dưới đây là gợi ý trả lời cho các câu hỏi của bạn:


Câu 1 (0,5 điểm):

Ngôi kể của văn bản trên là ngôi thứ nhất, người kể xưng "tôi".


Câu 2 (0,5 điểm):

Câu có thành phần phụ chú trong văn bản trên: "Những buổi sáng đi học sớm, chúng tôi - những người lạ mặt - người lạ mặt này ăn món quà của người lạ mặt kia."


Câu 3 (1,0 điểm):

Theo em, điều bí mật mà người bố nhắc đến là trong mỗi người bạn đều có những phẩm chất tốt đẹp, những điều thú vị mà ta chưa khám phá hết. Vì khi biết rõ món quà của ai, ta sẽ chỉ yêu người đó, nhưng khi không biết ai là người gửi, ta sẽ yêu quý tất cả mọi người xung quanh, vì biết đâu một trong số họ đã mang đến niềm vui cho mình.


Câu 4 (1,0 điểm):

Lời khuyên của nhân vật "tôi" cho thấy mong muốn tạo ra những điều bất ngờ, thú vị trong lớp học, lan tỏa sự yêu thương, quan tâm đến mọi người và duy trì tình bạn đẹp đẽ. Cậu bé muốn mọi người đều có thể trở thành "người lạ mặt" mang đến niềm vui cho người khác.


Câu 5 (1,0 điểm):

Em đồng tình với quan điểm này. Khi nhận một món quà mà không biết ai gửi, ta sẽ trân trọng tất cả những người xung quanh, bởi vì ai cũng có thể là người đã mang đến niềm vui cho ta. Điều này giúp ta mở lòng, yêu thương và kết nối với mọi người hơn, tạo nên một cộng đồng đoàn kết và hạnh phúc.

21 tháng 5

Phương trình bạn cần giải là:

\(4 u^{6} - 3 u^{4} - 5 u^{3} + 8 = 0\)

Đây là phương trình bậc 6 khá phức tạp. Mình sẽ hướng dẫn bạn cách tiếp cận để giải phương trình này.


Bước 1: Quan sát phương trình

Phương trình có các số mũ là 6, 4, 3, 0 (hằng số 8). Các số mũ không đều nhau, không thể dễ dàng đặt ẩn phụ đơn giản.


Bước 2: Thử nghiệm nghiệm hữu tỉ

Theo định lý nghiệm hữu tỉ, các nghiệm hữu tỉ có dạng \(\pm \frac{p}{q}\), trong đó \(p\) là ước của 8, \(q\) là ước của 4.

Ước của 8: 1, 2, 4, 8
Ước của 4: 1, 2, 4

Nghiệm hữu tỉ có thể là: \(\pm 1 , \pm 2 , \pm 4 , \pm \frac{1}{2} , \pm \frac{3}{2} , \pm \frac{1}{4} , \pm \frac{2}{4} = \pm \frac{1}{2}\), v.v.

Thử từng giá trị:

  • \(u = 1\):
\(4 \left(\right. 1 \left.\right)^{6} - 3 \left(\right. 1 \left.\right)^{4} - 5 \left(\right. 1 \left.\right)^{3} + 8 = 4 - 3 - 5 + 8 = 4\)

Không bằng 0.

  • \(u = - 1\):
\(4 \left(\right. - 1 \left.\right)^{6} - 3 \left(\right. - 1 \left.\right)^{4} - 5 \left(\right. - 1 \left.\right)^{3} + 8 = 4 - 3 + 5 + 8 = 14\)

Không bằng 0.

  • \(u = 2\):
\(4 \left(\right. 2 \left.\right)^{6} - 3 \left(\right. 2 \left.\right)^{4} - 5 \left(\right. 2 \left.\right)^{3} + 8 = 4 \times 64 - 3 \times 16 - 5 \times 8 + 8 = 256 - 48 - 40 + 8 = 176\)

Không bằng 0.

  • \(u = - 2\):
\(4 \left(\right. 64 \left.\right) - 3 \left(\right. 16 \left.\right) + 5 \left(\right. 8 \left.\right) + 8 = 256 - 48 + 40 + 8 = 256\)

Không bằng 0.

  • \(u = \frac{1}{2}\):
\(4 \left(\left(\right. \frac{1}{2} \left.\right)\right)^{6} - 3 \left(\left(\right. \frac{1}{2} \left.\right)\right)^{4} - 5 \left(\left(\right. \frac{1}{2} \left.\right)\right)^{3} + 8 = 4 \times \frac{1}{64} - 3 \times \frac{1}{16} - 5 \times \frac{1}{8} + 8 = \frac{1}{16} - \frac{3}{16} - \frac{5}{8} + 8\) \(= - \frac{2}{16} - \frac{10}{16} + 8 = - \frac{12}{16} + 8 = - \frac{3}{4} + 8 = \frac{29}{4} \neq 0\)
  • \(u = - \frac{1}{2}\):
\(4 \times \frac{1}{64} - 3 \times \frac{1}{16} + 5 \times \frac{1}{8} + 8 = \frac{1}{16} - \frac{3}{16} + \frac{5}{8} + 8 = - \frac{2}{16} + \frac{10}{16} + 8 = \frac{8}{16} + 8 = \frac{1}{2} + 8 = \frac{17}{2} \neq 0\)

Không có nghiệm hữu tỉ đơn giản.


Bước 3: Phân tích phương trình

Phương trình khó phân tích trực tiếp. Bạn có thể dùng phương pháp số hoặc đồ thị để tìm nghiệm gần đúng.


Bước 4: Gợi ý dùng phần mềm hoặc máy tính

Bạn có thể sử dụng máy tính đồ thị hoặc phần mềm như WolframAlpha, GeoGebra để tìm nghiệm gần đúng.


Kết luận:

Phương trình không có nghiệm hữu tỉ đơn giản. Để giải chính xác, bạn cần dùng phương pháp số hoặc phần mềm hỗ trợ.


Nếu bạn muốn, mình có thể giúp bạn tìm nghiệm gần đúng bằng phương pháp số hoặc hướng dẫn cách sử dụng phần mềm nhé!

Gọi vận tốc của xe đạp là x(km/h)

(Điều kiện: x>0)

Vận tốc của xe taxi là x+45(km/h)

3/4 quãng đường AB là \(\frac34\cdot40=30\left(\operatorname{km}\right)\)

Thời gian người thứ nhất đi được 30km bằng xe đạp là \(\frac{30}{x}\left(giờ\right)\)

Thời gian người thứ nhất đi 30km bằng xe taxi là \(\frac{30}{x+45}\left(giờ\right)\)

5p=1/12 giờ

Tổng thời gian người thứ nhất đi là \(\frac{30}{x}+\frac{30}{x+45}+\frac{1}{12}\left(giờ\right)\)

Tổng thời gian người thứ hai đi là \(\frac{40}{x}\left(giờ\right)\)

Vì khi người thứ hai đi đến B thì người thứ nhất đã về đến A được 5p=1/12 giờ nên ta có:

\(\frac{40}{x}=\frac{30}{x}+\frac{30}{x+45}+\frac{1}{12}+\frac{1}{12}=\frac{30}{x}+\frac{30}{x+45}+\frac16\)

=>\(\frac{10}{x}-\frac{30}{x+45}=\frac16\)

=>\(\frac{10\left(x+45\right)-30x}{x\left(x+45\right)}=\frac16\)

=>\(x\left(x+45\right)=6\left(10x+450-30x\right)=6\left(-20x+450\right)=-120+2700\)

=>\(x^2+165x-2700=0\)

=>(x+180)(x-15)=0

=>\(\left[\begin{array}{l}x+180=0\\ x-15=0\end{array}\right.\Rightarrow\left[\begin{array}{l}x=-180\left(loại\right)\\ x=15\left(nhận\right)\end{array}\right.\)

Vậy: Vận tốc của xe đạp là 15km/h

Vận tốc của xe taxi là 15+45=60km/h

23 tháng 4

Chịa khó giữ lên Google mà tìm

Câu 1: Văn bản viết về đề tài tình mẫu tử. Câu 2: Nước mắt của người mẹ đã rơi trong những hoàn cảnh:
  • Khi con tập đi và rơi xuống cầu thang.
  • Khi con cãi mẹ và bị đánh đòn.
  • Khi con về nhà và mẹ đếm tiền cho con.
  • Khi con tặng áo mới cho mẹ.
Câu 3: Dòng thơ "Nước mắt mẹ rơi" được lặp lại nhiều lần nhất trong văn bản. Việc lặp lại này nhằm nhấn mạnh sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ của người mẹ dành cho con, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Câu 4: Tình cảm người con dành cho mẹ qua những dòng thơ:
  • Người con rất quan tâm và yêu thương mẹ, thể hiện qua hành động tìm nhặt đồ nhựa, gom tiền để mua áo tặng mẹ.
  • Người con mong muốn được đền đáp công ơn của mẹ và mang lại niềm vui cho mẹ.
Câu 5: Chủ đề của văn bản là tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả.
  • Căn cứ 1: Các hình ảnh và tình huống trong bài thơ đều xoay quanh mối quan hệ giữa mẹ và con.
  • Căn cứ 2: Việc lặp lại dòng thơ "Nước mắt mẹ rơi" nhấn mạnh sự hy sinh và tình yêu thương của người mẹ.
Câu 6: Giọt nước mắt của người mẹ trong khổ thơ "Thấy áo mẹ sờn vai / Con tìm nhặt đồ nhựa / Gom tiền / Mua áo tặng mẹ / Mong thấy mẹ cười / Ai dè / Nước mắt mẹ rơi" có ý nghĩa sâu sắc nhất với bản thân em. Vì nó thể hiện sự xúc động và biết ơn của người mẹ trước hành động quan tâm và yêu thương của con.

loading...

a: Xét (O) có

ΔAKB nội tiếp

AB là đường kính

Do đó: ΔAKB vuông tại K

=>\(\widehat{AKB}=90^0\)

Xét tứ giác NKAH có \(\widehat{NKA}+\widehat{NHA}=90^0+90^0=180^0\)

nên NKAH là tứ giác nội tiếp

=>N,K,A,H cùng thuộc một đường tròn

b: Xét ΔBHN vuông tại H và ΔBKA vuông tại K có

\(\widehat{HBN}\) chung

Do đó: ΔBHN~ΔBKA

=>\(\dfrac{BH}{BK}=\dfrac{BN}{BA}\)

=>\(BH\cdot BA=BN\cdot BK\left(1\right)\)

Xét (O) có

ΔBCA nội tiếp

BA là đường kính

Do đó: ΔBCA vuông tại C

Xét ΔBCA vuông tại C có CH là đường cao

nên \(BH\cdot BA=BC^2\left(2\right)\)

Từ (1),(2) suy ra \(BC^2=BN\cdot BK\)

a: Xét (O) có

ΔAKB nội tiếp

AB là đường kính

Do đó: ΔAKB vuông tại K

=>\(\widehat{AKB}=90^0\)

Xét tứ giác NKAH có \(\widehat{NKA}+\widehat{NHA}=90^0+90^0=180^0\)

nên NKAH là tứ giác nội tiếp

=>N,K,A,H cùng thuộc một đường tròn

b: Xét ΔBHN vuông tại H và ΔBKA vuông tại K có

\(\widehat{HBN}\) chung

Do đó: ΔBHN~ΔBKA

=>\(\dfrac{BH}{BK}=\dfrac{BN}{BA}\)

=>\(BH\cdot BA=BN\cdot BK\left(1\right)\)

Xét (O) có

ΔBCA nội tiếp

BA là đường kính

Do đó: ΔBCA vuông tại C

Xét ΔBCA vuông tại C có CH là đường cao

nên \(BH\cdot BA=BC^2\left(2\right)\)

Từ (1),(2) suy ra \(BC^2=BN\cdot BK\)