K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với  cần GẤP TRONG TỐI NAY Ạ Viết bài văn Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với  cần GẤP TRONG TỐI NAY Ạ

Viết bài văn Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:

(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm (dứa): giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. (…). Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn (...)

                   (Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Chú thích:

 “Hoa trái quanh tôi” là bài bút kí được Hoàng Phủ Ngọc Tường đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 3, tháng 10-1983. Ở Huế, Bà Lan Hữu có một khu vườn rất đẹp gọi là An Hiên. Tác giả là người quen thân với bà Lan Hữu, thường xuyên tới khu vườn chơi và ghi lại những cảm nhận của mình về vẻ đẹp của khu vườn xuyên suốt bốn mùa trong năm. Đoạn trích trên là cảm nhận của tác giả về các loài hoa trong khu vườn An Nhiên vào mùa hạ.

 

1

Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích trong “Hoa trái quanh tôi”

Trong kho tàng văn học Việt Nam hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút tiêu biểu với phong cách bút kí đậm chất trữ tình, giàu suy tưởng và mang đậm dấu ấn cá nhân. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nét đặc trưng ấy là "Hoa trái quanh tôi". Đặc biệt, đoạn trích viết về khu vườn An Hiên vào mùa hạ không chỉ phác họa vẻ đẹp yên bình, thơ mộng của thiên nhiên Huế mà còn cho thấy một cái tôi nghệ sĩ đầy tinh tế, chan chứa tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

Vẻ đẹp khu vườn An Hiên trong đoạn trích hiện lên không phải bằng vẻ rực rỡ, lộng lẫy, mà là vẻ đẹp trầm mặc, sâu lắng của sự sống.

Ngay từ đầu đoạn trích, tác giả đã mở ra một không gian đặc trưng của mùa hạ bằng cảm nhận tinh tế: “sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối”. Cảnh vật như lắng đọng, yên bình, màu sắc cũng chuyển mình từ sắc xuân bay bướm sang sắc “lục trầm trầm của lá già”. Đó là màu của thời gian, của sự từng trải, bình ổn, mang vẻ đẹp rất riêng, đậm chất Huế – mộc mạc mà thâm trầm.

Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vườn An Hiên không đẹp theo lối phô trương, mà cái đẹp đến từ sức sống âm thầm bên trong. Dưới những tán lá rậm rạp là “các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc”. Đó là sự sống căng đầy, mãnh liệt và mạnh mẽ của thiên nhiên. Vườn cây mang vẻ đẹp của sức sinh sôi, của sự tiếp nối.

Không dừng lại ở việc tả cảnh, tác giả còn dành những trang viết đẹp đẽ và đầy cảm xúc cho từng loại quả. Mỗi loại quả được miêu tả bằng hình ảnh cụ thể, sống động, với liên tưởng phong phú, cho thấy sự quan sát tinh tế và tình yêu thiên nhiên nồng nàn của tác giả.

Quả thơm Nguyệt Biều được ví như một chiếc “bánh kem sinh nhật” do “cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn”, vừa bất ngờ, vừa gợi cảm giác ngọt ngào, dịu dàng, như chứa đựng linh hồn của cây trái. Hay hình ảnh cây dâu Truồi “tán lá khum khum úp sát mặt đất”, trái “vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây” mang đến một khung cảnh trù phú, đầy quyến rũ. Những liên tưởng này không chỉ thể hiện sự giàu có của thiên nhiên, mà còn là sự giao cảm sâu sắc giữa con người và vạn vật.

Đặc biệt, hình ảnh cây thanh long – “giống cây hiền lành nhất trong vườn” – được mô tả với sự trìu mến, gợi lên vẻ đẹp thầm lặng, khiêm nhường. Dù thân cây xấu xí như “đống dây chão”, nhưng hoa lại đẹp tuyệt diệu, “hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm”. Cây thanh long hiện lên như một người hiền từ, sống âm thầm, giản dị nhưng lại biết cho đi – đó cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp nhân hậu, bền bỉ của con người Huế.

Thông qua những dòng miêu tả ấy, cái tôi trữ tình và nghệ sĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường hiện lên rõ nét.

Trước hết, đó là cái tôi của một người yêu thiên nhiên, gắn bó mật thiết với quê hương, đất nước. Từng hình ảnh cây trái, từng chuyển động nhỏ của mùa hạ đều được ông cảm nhận bằng sự rung động sâu sắc. Cái tôi ấy không chỉ nhìn mà còn “cảm”, không chỉ tả mà còn suy tưởng và giao cảm.

Thứ hai, đó là cái tôi của một người nghệ sĩ tinh tế, có đời sống nội tâm phong phú, giàu trí tưởng tượng và chất thơ. Những so sánh như dứa Nguyệt Biều với bánh kem, dâu chín như đã được hái sẵn, thanh long như vật bị bỏ quên nhưng lại hiến dâng hoa trái… đều cho thấy tâm hồn nhạy cảm và óc quan sát đầy nghệ thuật của tác giả.

Cuối cùng, đó là cái tôi yêu cuộc sống, yêu sự an nhiên, thanh thản. Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ miêu tả thiên nhiên, mà qua thiên nhiên, ông thể hiện một triết lí sống rất đẹp: sống chậm, sống sâu, sống chan hòa với thiên nhiên. Ước mơ “trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu” là ước mơ giản dị mà đầy chất thơ – một lối sống mà biết bao người hằng mơ ước trong nhịp sống hiện đại hôm nay.

Kết luận:

Đoạn trích trong “Hoa trái quanh tôi” không chỉ là một bức tranh sinh động về khu vườn An Hiên vào mùa hạ, mà còn là bức chân dung tâm hồn của Hoàng Phủ Ngọc Tường – một con người nhạy cảm, yêu thiên nhiên, trân quý từng vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Qua đó, ta càng thêm yêu mến mảnh đất Huế thơ mộng và thấm thía thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên: sống chậm lại, yêu nhiều hơn và cảm nhận cuộc đời bằng tất cả trái tim.


Bạn có muốn mình giúp tóm tắt hoặc trích dẫn lại các ý chính để ôn tập nhanh không?

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Cần gấp trong tối nay ạ Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Cần gấp trong tối nay ạ

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.

Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.

Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!

Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết. Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu; chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi, để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

( Trích chương 12, “Thương nhớ mười hai’ Vũ Bằng, NXB Văn Học, Hà Nội,1993)

1
22 tháng 5

A. Đề nghị 1: Viết bài nghị luận phân tích, đánh giá đoạn trích “Yêu tháng chạp…” (Vũ Bằng)

Đề bài:
“Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế,… (đến hết) …chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

(Trích “Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng)

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả – tác phẩm: Vũ Bằng (1913–1984) là một trong những cây bút bậc thầy về bút ký và truyện ngắn miền Bắc trước 1954. Tác phẩm “Thương nhớ mười hai” là tập bút ký ca ngợi trọn vẹn không khí cuối năm, đặc biệt là Tết cổ truyền.
  • Dẫn dắt nội dung đoạn trích: Đoạn trích “Yêu tháng chạp…” thể hiện nỗi nhớ, niềm yêu tháng Chạp của người viết, qua đó gợi lên cả một bức tranh phong phú về tâm trí và văn hóa Tết.
  • Luận điểm: Bài nghị luận sẽ phân tích ngôn từ giàu hình ảnh, tình cảm thiết tha; đồng thời đánh giá giá trị nghệ thuật và ý nghĩa sâu sắc mà đoạn trích đem lại.

II. Thân bài

  1. Phong cách ngôn ngữ và cú pháp
    • Ngôn từ giàu hình tượng, đối lập tinh tế:
      • “Tháng chạp” được nhân hóa: “thời tiết sao mà dị thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế… lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.” → gợi lên cảm giác “ngày giáp tết” sinh động, ấm áp.
      • Hàng loạt các hình ảnh đối lập: “ngọn cỏ gió đùa” – “ngọn núi đồi sim/ nhựa cây mạch đất”, “con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non” → thiên nhiên đang hồi sinh, như thôi thúc lòng người.
    • Câu văn dài, liền mạch, dùng dấu phẩy nối liên tiếp: Lối liệt kê liên tục (enumeration) giúp thể hiện đủ mọi góc nhìn về Tháng Chạp: thiên nhiên, con người, phong tục, thực phẩm, quà biếu.
    • Những chi tiết rất đời thường, giàu chất bút ký: từ “cây sim”, “mây trôi lãng đãng”, “cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh”… cho đến “một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công”, “hộp trà Thiết Quan Âm”, “chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám”… → gợi đủ giác quan: thị giác, khứu giác, vị giác…
  2. Những tầng ý nghĩa hiện lên trong đoạn trích
    • Tình yêu đất trời, người và vạn vật:
      • Người viết tỏ ra yêu “ngọn cỏ gió đùa, mây trôi”, “cây sim”, “con sâu cái kiến” … cho thấy một tình yêu hết thảy mọi vật nhỏ bé. Đó là tình yêu “vạn vật đồng cảm” của bút ký.
      • Khi nhắc đến “cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh rải trên mái tóc” hay “con bướm đa tình bay lượn” lại là tình yêu con người, tình yêu cuộc sống đậm vị xuân.
    • Nỗi nhớ quê cũ, khát vọng sum họp, hướng về cội nguồn:
      • Dù “Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ…” nhưng tâm hồn vẫn luôn “hướng về quê cũ xa xưa”.
      • Hình ảnh “đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong” thể hiện phong tục Tết Bắc Bộ mộc mạc, đượm tình.
      • “Mua mấy cánh mẫu đơn cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu…” → đều là những kỷ niệm không thể nào quên giữa “đời sống đô thị” và “chút xưa”.
    • Thói biếu xén, lễ nghĩa ngày Tết:
      • Tâm điểm là cuộc tính toán những món quà biếu: “hộp trà Thiết Quan Âm biếu ông Long… ông Luận đã cho rượu, chả lẽ lại biếu rượu nữa? Hay biếu cân mứt, chục cam Xã Đoài?”
      • “Đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ…” cho thấy cả một mạng lưới lễ nghĩa phức tạp, dẫu người viết biết rằng một phần chỉ là “giao tiễn đôi mùa” nhưng vẫn không thể nào giản tiện.
      • Qua đó, vừa châm biếm, đồng thời thấu hiểu “văn hóa biếu tặng” trong những ngày Tết – vừa tự hào vừa rơm rớm khó xử.
  3. Giá trị nghệ thuật
    • Giọng văn thành thật, mộc mạc mà sâu sắc: Dường như tác giả chỉ chép lại tường tận những gì mắt thấy, tai nghe, mùi ngửi, mùi vị… mà không tô vẽ cầu kỳ, một “dòng bút ký” đúng nghĩa.
    • Nhịp điệu cảm xúc nhịp nhàng: Đoạn mở đầu là niềm yêu vô tận với “tháng chạp” và thiên nhiên, chuyển dần sang ký ức nhớ quê, cuối cùng lắng xuống với những trăn trở lễ nghĩa. Nhịp cảm xúc ấy như bản hòa ca của tâm hồn nhà văn, biểu cảm rất linh hoạt.
    • Hình ảnh giàu chất tạo hình, giàu tính gợi: Từng chi tiết “quan trọng” cho đến “nhỏ xíu” đều được khắc họa tỉ mỉ: “giấy đỏ”, “hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc”, “chai rượu nếp cẩm hạ thổ”... Chỉ cần đọc tên món ăn, món quà, người Hà Nội đủ “cảm” ra cái không khí sắp Tết thân thuộc.
  4. Đánh giá
    • Tác phẩm có sức gợi mạnh về tâm thái con người cuối năm: Đọc đến đâu, người ta như ngửi được mùi gió lạnh, nghe được tiếng rao quất, tiếng cười bà con.
    • Đoạn trích vừa ca ngợi vừa phê phán tinh tế:
      • Ca ngợi vẻ đẹp nhịp sống Tết, tình yêu thiên nhiên, tình người.
      • Phê phán nhẹ nhàng những lề thói biếu xén, tốn kém vô ích, khiến người ta cảm thấy “không biết làm ăn ra sao”.
    • Chính sự giao thoa giữa ca ngợi và châm biếm tinh tế đã làm nên sức sống lâu bền cho bút ký của Vũ Bằng.

III. Kết bài

  • Khẳng định giá trị nghệ thuật và tư tưởng: Đoạn trích cho thấy tình yêu thiên nhiên, nỗi nhớ gia đình và cách nhìn tinh tế, hài hước về phong tục Tết.
  • Nêu cảm nhận của bản thân: “Với tôi, đọc Vũ Bằng là cảm nhận được một không khí Tết rất ấm áp, vừa hoài cổ, vừa thức tỉnh về những giá trị truyền thống.”
Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với 

Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:

(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm (dứa): giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. (…). Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn (...)

                   (Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Chú thích:

 “Hoa trái quanh tôi” là bài bút kí được Hoàng Phủ Ngọc Tường đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 3, tháng 10-1983. Ở Huế, Bà Lan Hữu có một khu vườn rất đẹp gọi là An Hiên. Tác giả là người quen thân với bà Lan Hữu, thường xuyên tới khu vườn chơi và ghi lại những cảm nhận của mình về vẻ đẹp của khu vườn xuyên suốt bốn mùa trong năm. Đoạn trích trên là cảm nhận của tác giả về các loài hoa trong khu vườn An Nhiên vào mùa hạ.

 

1
22 tháng 5

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường (1936–2022) là cây bút bút ký – du ký nổi tiếng, dành nhiều tình cảm cho vùng đất Huế, đặc biệt các khu vườn xứ Huế.
  • Giới thiệu tác phẩm – đoạn trích: “Hoa trái quanh tôi” là bút ký ghi lại cảm nhận của tác giả về khu vườn An Hiên ở Huế, nơi bà Lan Hữu trồng nhiều cây trái quý hiếm. Đoạn trích trân trọng vẻ đẹp mùa hạ: “Vườn lá không đẹp… nhưng toát ra khí mạnh của nhựa cây…”, “Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả…”.
  • Luận điểm: Bài nghị luận sẽ phân tích hai nội dung chính:
    1. Vẻ đẹp riêng biệt, trầm mặc của khu vườn An Hiên khi vào mùa hạ.
    2. Cái “tôi” nhà văn – giàu tình yêu thiên nhiên, tinh tế, đồng cảm và chở che cho vườn cây.

II. Thân bài

  1. Vẻ đẹp khu vườn An Hiên vào mùa hạ
    1. Không khí “chùng lại” của trời đất
      • Đầu đoạn, tác giả viết: “Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong màu lục trầm trầm của lá già.”
      • Hình ảnh “chùng lại” gợi ra nhịp sống chậm rãi của mùa hè xứ Huế; màu “lục trầm trầm” của lá già không còn rực rỡ mùa xuân, nhưng toát lên sự trầm tĩnh, khoáng đạt.
    2. Sức sống mạnh mẽ của nhựa cây
      • “Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây…”
      • Diễn đạt tuy thẳng thắn (“không đẹp”), nhưng tác giả luôn tìm thấy sự “mạnh mẽ” ẩn chứa trong “nhựa cây”: đây là vẻ đẹp không nhìn thấy ngay bề ngoài mà phải cảm nhận bằng lòng say mê thiên nhiên.
    3. Sự đa dạng của trái chín trong vườn
      • “Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm (dứa):… Giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa, vàng rượu màu mật ong… như một chiếc bánh kem sinh nhật.”
      • Hình ảnh so sánh rất sáng tạo: “dứa đỏ như lửa, vàng rượu như mật ong”, “chiếc bánh kem sinh nhật” gợi liên tưởng tới sự ngọt ngào, sung túc.
      • “Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu… cây dâu Truồi… trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây.”
        • Màu vàng “hươm” của dâu Truồi là nét độc đáo ở Huế. Hình ảnh “đổ úp thành đống” nhấn mạnh độ no đủ, cho người xem cảm giác ấm no, sung túc.
      • “Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn… đến mùa lại cho con người hoa trái.”
        • Dù “thân nhánh dài ngoằng nằm úp dưới gốc cây”, “cây xấu xí mà hoa đẹp thế” rồi “trái thanh long… màu cánh sen… ruột trong như bột lọc, mát và khỏe người” → thiên nhiên cung cấp “món quà hảo tâm” cho người vườn.
    4. Cảm giác “tôi” muốn hòa vào vườn
      • “Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá… nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè.”
      • Khát khao “đóng băng thời gian” để tận hưởng khoảnh khắc thiên nhiên ban tặng, thể hiện tâm hồn nhà văn hoàn toàn hòa nhập, an nhiên, thư thái.
  2. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường
    1. Cái “tôi” biết thưởng thức và đồng cảm sâu sắc
      • Dù anh khẳng định “vườn lá không đẹp” nhưng ngay lập tức cho thấy mình vẫn say mê: “nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh…” → thể hiện thái độ “nhìn sâu hơn vẻ bề ngoài”, rất giàu cảm xúc và thẩm mỹ.
      • Anh tìm thấy “thơm Nguyệt Biều”… “cây dâu Truồi”… “cây thanh long” không chỉ là trái ngon mà còn là biểu tượng của văn hóa và phong tục địa phương. Cái “tôi” trân trọng giá trị bản địa.
    2. Cái “tôi” giàu tưởng tượng, lãng mạn
      • Gợi lên hình ảnh “chiếc bánh kem sinh nhật” giữa vườn dứa, hay tưởng tượng “nằm đó đọc sách ăn dâu suốt mùa hè”.
      • Dùng liên tưởng lãng mạn để mô tả mùi vị, màu sắc, không ngại “bẻ khung” thực tại để gợi ra ước vọng ít lo toan.
    3. Cái “tôi” biết trân trọng thiên nhiên như người bạn
      • Cách gọi “món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn” cho thấy tác giả xem thiên nhiên là đối tượng quan tâm, trân trọng và “quà tặng” thật sự.
      • Tình cảm gắn bó lâu dài với khu vườn An Hiên (qua bút ký đăng trên “Sông Hương” 1983) chứng tỏ đây không phải “nhất thời” mà là “món khoái khẩu” của tâm hồn anh.
    4. Cái “tôi” bình dị, chân thành
      • Không khoa trương, không tô vẽ quá mức mà tả từng chi tiết: “thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống”, “trồng một lần rồi chẳng cần ngó lại”…
      • Cách kể chân chất, như chia sẻ với bạn bè chứ không phải “viết để khoe”.

III. Kết bài

  • Khẳng định: Đoạn trích đã khắc họa chân thực vẻ đẹp trầm mặc, phong phú của khu vườn An Hiên vào mùa hạ, và đồng thời làm nổi bật cái “tôi” giàu tình yêu thiên nhiên, nhạy cảm và giàu tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
  • Cảm nhận cuối cùng: Qua bút ký này, người đọc không chỉ thấy một bức tranh thực vật mỹ miều mà còn cảm nhận được tiếng lòng người viết – tiếng lòng của một kẻ yêu vườn cây, yêu đời sống thuần khiết miền Trung.
Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Mình cần trong tối nay ạ Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già....
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với 

Mình cần trong tối nay ạ

Phân tích vẻ đẹp khu vườn An Hiên và cái  “tôi”  của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua đoạn trích sau:

(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả, khởi đầu là mùa thơm (dứa): giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. (…). Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn: thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn (...)

                   (Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Chú thích:

 “Hoa trái quanh tôi” là bài bút kí được Hoàng Phủ Ngọc Tường đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 3, tháng 10-1983. Ở Huế, Bà Lan Hữu có một khu vườn rất đẹp gọi là An Hiên. Tác giả là người quen thân với bà Lan Hữu, thường xuyên tới khu vườn chơi và ghi lại những cảm nhận của mình về vẻ đẹp của khu vườn xuyên suốt bốn mùa trong năm. Đoạn trích trên là cảm nhận của tác giả về các loài hoa trong khu vườn An Nhiên vào mùa hạ.

1
16 tháng 4

1. Giới thiệu về đoạn trích và khu vườn An Hiên

Đoạn trích trong bài bút ký "Hoa trái quanh tôi" của Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa vẻ đẹp của khu vườn An Hiên vào mùa hạ. Đây là một khu vườn nổi tiếng ở Huế, được bà Lan Hữu chăm sóc tỉ mỉ và là nơi tác giả thường xuyên lui tới, cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và ghi lại những suy tư, cảm xúc về vườn tược, về sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Qua đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mô tả vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện cái "tôi" – cái nhìn riêng biệt, đầy chất thơ và trữ tình của tác giả đối với cảnh vật.

2. Vẻ đẹp khu vườn An Hiên qua sự miêu tả của tác giả

Ngay từ câu đầu tiên, tác giả đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên mùa hạ để đưa người đọc vào không gian của khu vườn An Hiên. Mùa hạ được mô tả với sự chuyển dịch của trời đất "chùng lại trên cây cối", không còn sự tươi mới, rộn ràng của mùa xuân mà thay vào đó là sắc xanh trầm của lá già, tạo nên một không gian yên tĩnh, đằm thắm. Tác giả nhận xét rằng "vườn lá không đẹp", nhưng lại không khiến người đọc cảm thấy chán ngán. Điều này thể hiện sự gần gũi của tác giả với thiên nhiên, dù có sự thay đổi trong màu sắc của lá cây, nhưng cái "hồn" của vườn vẫn ẩn chứa trong đó – khí mạnh của nhựa cây, sức sống mãnh liệt dù không được khoác lên mình lớp áo rực rỡ.

Khi mùa quả đến, khu vườn An Hiên lại khoác lên mình những màu sắc tươi mới. Đặc biệt là dứa, loại quả đầu tiên được nhắc đến trong đoạn trích. Tác giả mô tả quả dứa Nguyệt Biều với vỏ "chín đỏ như lửa", màu sắc rực rỡ của quả như một chiếc bánh kem sinh nhật do "cô gái nào đó" đã chuẩn bị sẵn trong cây, làm nổi bật sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Vẻ đẹp của quả dứa không chỉ là ở hình thức mà còn là sự liên tưởng tinh tế của tác giả, khi mà hình ảnh chiếc bánh kem sinh nhật gợi lên sự ngọt ngào và ấm áp.

Cùng với dứa, cây dâu cũng được mô tả với vẻ đẹp mộc mạc nhưng rất ấn tượng. Cây dâu Truồi có tán lá "khum khum úp sát mặt đất", trái dâu "chín vàng hươm" tạo thành những "chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây", giống như những quả dâu đã được hái sẵn, tạo nên một khung cảnh bình yên, tĩnh lặng. Sự miêu tả về cây dâu không chỉ là sự thể hiện vẻ đẹp của nó mà còn là sự liên tưởng của tác giả tới những kỷ niệm, những ước mơ nhỏ nhặt: "giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu". Đây là khoảnh khắc tác giả thả mình vào thiên nhiên, tận hưởng sự bình yên mà vườn tược đem lại.

Cây thanh long – đặc sản của Nha Trang – là loài cây "xấu xí" nhưng lại có hoa đẹp, nở vào đêm, giống như hoa quỳnh. Sự miêu tả về thanh long cũng đầy ẩn dụ, khi tác giả nhấn mạnh sự đối lập giữa vẻ ngoài "xấu xí" của cây và vẻ đẹp lạ lùng của hoa. Điều này có thể được hiểu như một sự khẳng định rằng vẻ đẹp thật sự đôi khi không nằm ở ngoại hình, mà là ở nội dung bên trong – một triết lý sống sâu sắc của tác giả.

3. Cái "tôi" của Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện qua đoạn trích

Cái "tôi" trong đoạn trích của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cái tôi của một người yêu thiên nhiên, một người sống nhạy cảm với những thay đổi của vườn tược. Cái "tôi" ấy không chỉ dừng lại ở sự mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, giữa cái tôi cá nhân với thế giới xung quanh. Sự liên tưởng của tác giả với cảnh vật, với những trái cây trong vườn không chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà còn chứa đựng những suy tư, những cảm xúc riêng biệt.

Khi tác giả mỉm cười với "ý nghĩ lạ lùng" về việc nằm dưới gốc cây dâu ăn quả, đó là một sự thể hiện cái "tôi" khát khao tìm lại sự bình yên trong tâm hồn, thoát khỏi những bộn bề của cuộc sống. Cái "tôi" ấy không cần những ồn ào, vội vã, mà chỉ muốn "trải một tấm chiếu nhỏ", một hình ảnh rất gần gũi, mộc mạc nhưng cũng rất thơ mộng. Qua đó, cái "tôi" của tác giả không chỉ yêu thiên nhiên mà còn khao khát sự thanh thản, một không gian riêng để thư giãn và tận hưởng cuộc sống.

Cái "tôi" của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thể hiện qua cách tác giả sử dụng ngôn từ, hình ảnh để khắc họa sự sống động của thiên nhiên. Những từ ngữ như "khí mạnh của nhựa cây", "vàng rệu màu mật ong", "bánh kem sinh nhật" không chỉ là sự mô tả cụ thể về sự vật mà còn là cách tác giả gợi lên cảm xúc, sự tưởng tượng phong phú của mình. Đó là cái "tôi" của một con người tinh tế, đầy cảm hứng nghệ thuật và có khả năng nhìn nhận vẻ đẹp trong những chi tiết nhỏ bé nhất.

4. Kết luận

Qua đoạn trích trên, Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ miêu tả vẻ đẹp của khu vườn An Hiên mà còn thể hiện cái "tôi" của mình qua sự nhạy cảm với thiên nhiên, sự hòa quyện giữa con người và cảnh vật. Cái "tôi" ấy không chỉ tìm thấy vẻ đẹp trong những loài cây trái mà còn gửi gắm những suy tư về cuộc sống, về sự bình yên và niềm vui trong những khoảnh khắc giản dị. Cách tác giả nhìn nhận vườn tược không chỉ là cái nhìn của một người yêu thiên nhiên mà còn là cái nhìn của một người có tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc, luôn tìm kiếm vẻ đẹp ở những chi tiết bình thường nhất của cuộc sống.

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với Mình cần trong tối nay luôn nhé Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết;...
Đọc tiếp

Mọi người cứu với , dùng ChatGDP cũng đc , viết hoàn chỉnh cho mình với 

Mình cần trong tối nay luôn nhé

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn văn sau:

“Yêu tháng chạp không biết bao nhiêu, nhưng yêu nhất là những ngày giáp tết, thời tiết sao mà đĩ thế, con mắt tấm lòng sao mà đong đưa thế, lời nói, tiếng chào sao mà duyên dáng tơ mơ thế.

Tôi yêu hết và tôi nói là tôi yêu hết; yêu ngọn cỏ gió đùa, mây trôi lãng đãng, ngọn núi đồi sim, nhựa cây mạch đất, yêu con sâu cái kiến nằm co ro trong tổ bấy giờ trỗi lên tìm lá mới hoa non, yêu cô gái mặc quần lĩnh hoa chanh lại cài một cánh hoa hồng trên mái tóc, yêu con bướm đa tình bay lượn trên giàn hoa thiên lí, cái áo nhung xanh nổi bật lên trong vườn quýt đỏ, cam vàng, trông mới lại càng yêu những giọt mưa bé tỉ ti đọng lại trên nhung mướt làm cho người đẹp óng a óng ánh như thiên thần trong mộng. Cũng may mà cứ vào tháng chạp, ở đây, thỉnh thoảng lại có những đêm xanh gió thổi hiu hiu làm cho người thức khuya cảm thấy da tê tê, lành lạnh mà nghe như thấy tết đến xuân về trước ngõ nên cũng nguôi ngoai được phần nào, chớ cứ nắng chói chan, khô héo liền liền thi chỉ thương nhớ mà héo hắt đi, sống làm sao cho nổi.

Tết ở đây thiếu gì vải lụa của Thái Lan, Đại Hàn, thiếu gì đồ ăn thức uống của Nhật, của Mỹ, thiếu gì trái ngon, gái đẹp “lô can”, nhưng cơn cớ làm sao mỗi khi có sự giao tiễn đôi mùa thì lòng lại hướng về quê cũ xa xưa, mơ lại ngày nào cùng vợ đi mua đôi ba chậu cúc vàng, quất đỏ, rồi về ăn quấy quá cho xong để lại đi ù lên Ngọc Hà mua mấy cánh mẫu đơn về để cắm bình, không quên vài tấm giấy đỏ để gói tiền mở hàng cho trẻ, một chai Mai Quế Lộ hay Sử Quốc Công, hai vợ chồng đi dưới mưa riêu riêu dặn nhau phải nhớ mua một hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc và xẻ vài chai rượu nếp cẩm hạ thổ từ tháng tám!

Nhớ lại như thế thì quên làm sao được vào những ngày hai mươi bốn, hai mươi lăm vợ thức từ bốn năm giờ sáng, khoác một cái áo lạnh trên mình ngồi giữa sập sắp xếp các món đồ đem đi biếu tết những bạn bè thân thiết. Đó là cả một vấn đề phức tạp: hộp trà Thiết Quan Âm vỏ thiếc để biếu ông Long đã đành rồi, nhưng ông Luận hôm qua đã cho rượu, chả lẽ mình lại biếu rượu nữa, thôi hay là biếu cân mứt và chục cam Xã Đoài. Hộp kẹo này đưa sang bác Thanh Châu; chị Sen ơi, hai hộp trà mạn sen tự tay mợ ướp đây là để dành cho ông Chung, ông Chước; nhưng đến Nguyễn Dân Giám thì quả là khó nghĩ. Hôm hai mươi ba mới rồi, để đánh dấu tập “Dưới rặng thông” in làm phụ bản số tết, anh ta sai người làm đội một cái quả to bằng cái nia từ Hàng Cân đến Hàng Da, đầy đủ bún thang, chả quế, giò lụa, nước xuýt, bào ngư, hầu sì, cuốn; bây giờ biết đem biếu gì đây? Ấy, chỉ có thế mà nghĩ mãi không biết làm ăn ra thế nào.”

( Trích chương 12, “Thương nhớ mười hai’ Vũ Bằng, NXB Văn Học, Hà Nội,1993)

1
22 tháng 5

Gợi ý trả lời:
Trong đoạn trích Biển người mênh mông, điểm nhìn trần thuật được sử dụng là ngôi thứ nhất, người kể chuyện là một nhân vật trực tiếp chứng kiến cảnh biển người đông đúc. Điểm nhìn này giúp tạo sự chân thực, sinh động và gần gũi cho người đọc, thể hiện rõ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật về sự huy hoàng, náo nhiệt của chợ phiên. Qua đó, tác giả thể hiện được sự phong phú, tấp nập của cuộc sống vùng quê qua góc nhìn riêng biệt.

Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh. Lòng đâu sẵn mối thương tâm,Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.Đau đớn thay phận đàn bà!Lời rằng bạc mệnh cũng là...
Đọc tiếp

Lược dẫn: Trong tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng với Thúy Vân và Vương Quan đi chơi xuân, khi trở về, gặp một nấm mộ vô danh ven đường, không người hương khói. Kiều hỏi thì được Vương Quan cho biết đó là mộ Đạm Tiên, một ca nhi nổi danh tài sắc nhưng bạc mệnh. 

Lòng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.

Đau đớn thay phận đàn bà!

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Phũ phàng chi mấy hoá công,

Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.

Sống làm vợ khắp người ta,

Hại thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung1,

Nào người tích lục tham hồng2 là ai ?

Đã không kẻ đoái người hoài,

Sẵn đây ta thắp một vài nén hương.

Gọi là gặp gỡ giữa đường,

Họa là người dưới suối vàng biết cho.

Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,

Sụp ngồi vái gật trước mồ bước ra.

Một vùng cỏ áy3 bóng tà,

Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.

Rút trâm giắt sẵn mái đầu,

Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần.

Lại càng mê mẩn tâm thần

Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.

Lại càng ủ dột nét hoa,

Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài

?Tìm các từ láy và nêu mạch cảm xúc của Thúy Kiều.Nêu tác dụng của phép đối trong:

Sống làm vợ khắp người ta,

Hại thay thác xuống làm ma không chồng.

Nào người phượng chạ loan chung1,

Nào người tích lục tham hồng2 là ai ?


1
22 tháng 5

Bánh chứng kiến là một loại bánh truyền thống, thường xuất hiện trong các dịp lễ hội và có ý nghĩa tượng trưng. Cái tên "chứng kiến" có thể ám chỉ sự chứng thực hoặc là minh chứng cho một sự kiện quan trọng nào đó trong cuộc sống. Việc gọi là bánh chứng kiến có thể phản ánh sự gắn kết giữa bánh và những dịp đặc biệt mà chúng xuất hiện.

7 tháng 5

HClCH3CH2Cl

\(\left(\right. 2 \left.\right) \left(C H\right)_{3} \left(C H\right)_{2} C l + N a O H \left(C H\right)_{3} \left(C H\right)_{2} O H + N a C l\)

\(\left(\right. 3 \left.\right) \left(C H\right)_{3} \left(C H\right)_{2} O H + C u O \left(C H\right)_{3} C H O + C u + H_{2} O\)

\(\left(\right. 4 \left.\right) \left(C H\right)_{3} C H O + \left(B r\right)_{2} + H_{2} O \rightarrow \left(C H\right)_{3} C O O H + 2 H B r\)

8 tháng 4

Đây nha :

Dàn ý thuyết minh về cảnh quan thiên nhiên vùng biển huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi

I. Mở bài

  • Giới thiệu về huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi: một huyện nằm ven biển, với phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, là nơi thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
  • Đề cập đến vẻ đẹp đặc trưng của cảnh quan biển huyện Mộ Đức: những bãi biển xanh mát, cát trắng mịn, làn sóng vỗ về, cùng với hệ sinh thái biển phong phú.

II. Thân bài

  1. Vị trí địa lý và đặc điểm chung
    • Huyện Mộ Đức nằm ở khu vực ven biển miền Trung, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
    • Khí hậu nhiệt đới gió mùa, với mùa hè nắng nóng và mùa đông mát mẻ, thuận lợi cho các hoạt động du lịch biển.
    • Mộ Đức có bờ biển dài với nhiều bãi tắm đẹp, dễ dàng tiếp cận từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi.
  2. Cảnh quan thiên nhiên biển Mộ Đức
    • Bãi biển Mộ Đức: Bãi biển dài, cát trắng mịn, nước biển trong xanh, là nơi lý tưởng để tắm biển và thư giãn.
    • Hệ sinh thái biển: Với rạn san hô, cá, tôm, và các loài sinh vật biển phong phú, vùng biển Mộ Đức là nơi sinh sống của nhiều loài động vật biển quý hiếm.
    • Các đầm, vịnh ven biển: Nơi đây có những đầm phá như đầm Thị Nại, nơi có cảnh sắc bình yên, là nơi sinh sống của nhiều loài thủy sinh, cùng hệ thực vật ngập mặn đa dạng.
  3. Phong cảnh và cảnh quan thiên nhiên xung quanh biển
    • Đồi cát Mộ Đức: Những đồi cát trắng trải dài, mang lại vẻ đẹp hoang sơ và quyến rũ, thu hút du khách đến chụp ảnh và tham gia các hoạt động ngoài trời.
    • Làng chài truyền thống: Nơi cư dân địa phương sinh sống và làm nghề chài lưới, tạo nên một bức tranh sống động với những chiếc thuyền đậu trên bãi biển, từng đàn cá được mang vào bờ.
    • Cây cối và thảm thực vật: Vùng ven biển có nhiều loài cây đặc trưng như cây dừa, cây phi lao, cùng với hệ thực vật ngập mặn, giúp bảo vệ bờ biển khỏi xói mòn.
  4. Kinh tế và đời sống của người dân
    • Ngư nghiệp và du lịch biển: Biển Mộ Đức là nguồn sống của người dân nơi đây với các hoạt động đánh bắt thủy sản và nuôi trồng hải sản. Các sản phẩm như cá, tôm, rong biển, ngọc trai... là đặc sản nổi bật.
    • Du lịch sinh thái: Những năm gần đây, huyện Mộ Đức đã phát triển du lịch sinh thái, thu hút khách tham quan các bãi biển, làng chài, và các hoạt động thể thao dưới nước như lướt ván, bơi thuyền kayak, hay câu cá.

III. Kết bài

  • Tóm lại, biển Mộ Đức, Quảng Ngãi là một điểm đến tuyệt vời với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, đa dạng sinh thái và nền văn hóa đặc trưng của ngư dân miền Trung.
  • Kêu gọi bảo vệ và gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên này, đồng thời phát triển du lịch bền vững để Mộ Đức trở thành điểm đến hấp dẫn trong tương lai.